Thứ Ba, 14 tháng 3, 2023

Mỹ và Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tại Đài Loan

 

Mỹ và Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tại Đài Loan

Economist

Cù Tuấn, dịch

14-03-2023

Bản đồ 1: Các điểm tập kích thích hợp của Trung Quốc nếu đánh Đài Loan. Ảnh trên mạng

Tóm tắt: Chiến tranh Đài Loan sẽ lan rộng khắp khu vực, với những hậu quả tàn khốc cho thế giới

Khuôn mặt họ lấm tấm các vệt màu xanh lá cây và đen, một số mang theo tên lửa phòng không Stinger trên ba lô, những người lính của “Darkside”—tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn thủy quân lục chiến số 4 của Mỹ—lên một cặp trực thăng Sea Stallion và chạy lạch bạch vào khu rừng gần đó. Các chỉ huy của họ theo sau bằng nhiều trực thăng chở các phương tiện siêu nhẹ và thiết bị liên lạc. Những đồ vật thừa đã được bỏ lại phía sau. Không có màn hình lớn cho các liên kết video thuộc loại được sử dụng ở Iraq và Afghanistan: để tránh bị phát hiện, lính thủy đánh bộ phải đảm bảo thông tin liên lạc của họ hòa vào nền cũng như lớp ngụy trang của họ hòa vào màu xanh của vùng nhiệt đới. Mục tiêu của cuộc tập trận: phân tán xung quanh một hòn đảo không tên, liên kết với các đồng minh “xanh” thân thiện và đẩy lùi cuộc xâm lược đổ bộ của quân địch màu “đỏ”.

Bỏ qua những trò chơi chữ mơ hồ này đi. Lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đang luyện tập để sẵn sàng cho một cuộc chiến với Trung Quốc, có thể xảy ra do một cuộc xâm lược Đài Loan. Căn cứ của Mỹ ở Okinawa, ở cực nam của quần đảo Nhật Bản, chỉ cách Đài Loan 600km (370 dặm). Hai hòn đảo này là một phần của cái mà các nhà hoạch định quân sự Mỹ gọi là “chuỗi đảo thứ nhất”: một loạt quần đảo và đảo lớn nhỏ trải dài từ Nhật Bản đến Malaysia, cản trở việc đi lại của hải quân Trung Quốc đến Thái Bình Dương. Cho dù bằng cách ngăn chặn các tàu Trung Quốc từ xa hay – ít có khả năng hơn – bằng cách triển khai tới Đài Loan để giúp đẩy lùi một cuộc đổ bộ của Trung Quốc, thủy quân lục chiến Mỹ sẽ sớm tham gia vào bất kỳ cuộc xung đột nào.

Trung tá Jason Copeland, sĩ quan chỉ huy của Darkside, cho biết phần khó nhất sẽ là đối phó với “một kẻ thù đang tấn công bạn với số lượng quân lớn”. Khi sức mạnh quân sự của Trung Quốc tăng lên, việc dự đoán một cuộc chiến tranh đối với Đài Loan có thể diễn ra như thế nào, và do đó cải thiện khả năng chống lại Trung Quốc mà không gây ra thảm họa hạt nhân trở nên ngày càng khó khăn hơn. Điều chắc chắn duy nhất là, ngay cả khi tất cả vũ khí hạt nhân vẫn nằm trong hầm chứa của chúng, thì một cuộc xung đột như vậy sẽ gây ra những hậu quả khủng khiếp, không chỉ đối với 23 triệu người dân Đài Loan mà còn đối với thế giới.

Các nhà lãnh đạo Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố chủ quyền với Đài Loan kể từ khi các lực lượng Quốc dân đảng chạy đến Đài Loan sau khi thất bại trong cuộc nội chiến năm 1949. Mỹ từ lâu đã cam kết giúp hòn đảo này tự vệ. Nhưng trong những năm gần đây, ở cả hai bên, những lời hùng biện và công tác chuẩn bị đã trở nên sốt sắng hơn. Các lực lượng của Trung Quốc thường tập trận đổ bộ lên đảo. Các tàu chiến và máy bay chiến đấu của họ thường xuyên vượt qua “đường trung tuyến” (có hiệu lực là ranh giới trên biển của Đài Loan) và quấy rối các tàu và máy bay quân sự của Mỹ và các đồng minh. Sau khi bà Nancy Pelosi, lúc đó là Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ, đến thăm Đài Loan vào năm ngoái, Trung Quốc đã bắn tên lửa về hướng Đài Loan.

1. Eo biển bất ổn

Mỹ trong giai đoạn này đang gửi thêm các huấn luyện viên quân sự đến Đài Loan. Chính phủ Đài Loan gần đây đã tăng nghĩa vụ quân sự bắt buộc từ bốn tháng lên một năm. Các dân biểu nổi tiếng đã thúc giục Tổng thống Joe Biden học hỏi từ cuộc tấn công của Nga vào Ukraine và cung cấp cho Đài Loan tất cả vũ khí mà nước này có thể cần trước một cuộc xâm lược, chứ không phải sau khi một cuộc xâm lược đã bắt đầu. Thêm vào cảm giác khủng hoảng sắp xảy ra là những nỗ lực của Mỹ nhằm kìm hãm ngành công nghệ của Trung Quốc và sự thân thiện ngày càng tăng của ông Tập với Nga.

Các chỉ huy quân sự và chỉ huy tình báo Mỹ nói rằng ông Tập đã ra lệnh cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) phát triển khả năng xâm chiếm Đài Loan vào năm 2027. Một số người cho rằng xung đột đang cận kề hơn. Tướng Michael Minihan, người đứng đầu bộ chỉ huy cơ động đường không của Mỹ, gần đây đã cảnh báo cấp dưới: “Trực giác mách bảo tôi rằng chúng ta sẽ phải chiến đấu vào năm 2025. Cả hai bên đều lo sợ rằng thời gian không còn nhiều: Mỹ lo ngại rằng các lực lượng vũ trang của Trung Quốc có thể sớm trở nên quá mạnh để có thể ngăn chặn, trong khi Trung Quốc lo lắng rằng triển vọng thống nhất hòa bình đang dần tan biến.”

Đô đốc John Aquilino, chỉ huy Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ, người sẽ giám sát bất kỳ cuộc chiến nào với Trung Quốc, tuyên bố: “Chiến tranh với Trung Quốc không phải là không thể tránh khỏi và nó không sắp xảy ra”. Phát biểu tại trụ sở của mình nhìn ra Trân Châu Cảng, nơi diễn ra cuộc tấn công phủ đầu của Nhật Bản vào năm 1941, ông cho biết nhiệm vụ đầu tiên của mình là “làm mọi thứ trong khả năng của mình để ngăn chặn xung đột”. Tuy nhiên, ông nói thêm, “nếu việc răn đe thất bại, bạn phải sẵn sàng chiến đấu và giành chiến thắng”. Quan sát Nga xâm lược Ukraine, ông cảnh báo: “Không có thứ gọi là chiến tranh ngắn hạn”.

Câu hỏi đầu tiên dành cho các nhà chiến lược của Mỹ là họ sẽ nhận được bao nhiêu cảnh báo về một cuộc xâm lược sắp xảy ra. PLA, với quân số thường trực ước tính khoảng 2 triệu người, so với 163.000 người của Đài Loan, sẽ cần chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến hành cuộc tấn công đổ bộ lớn nhất kể từ cuộc đổ bộ D-Day năm 1944. Lực lượng này sẽ phải hủy nghỉ phép, tập hợp tàu đổ bộ, dự trữ đạn dược, thiết lập các sở chỉ huy di động và nhiều hơn nữa.

Nhưng trong một cuộc chiến có sự lựa chọn, với việc ông Tập có thể chọn thời điểm của mình, nhiều động thái trong số này có thể được ngụy trang thành các cuộc tập trận quân sự. Các quan chức quốc phòng Mỹ nói rằng họ chỉ có thể nhìn thấy những dấu hiệu rõ ràng về chiến tranh sắp xảy ra, chẳng hạn như dự trữ nguồn cung cấp máu, chỉ trong vòng hai tuần. Đối với các hoạt động nhỏ hơn, chẳng hạn Trung Quốc chiếm các đảo mà Đài Loan kiểm soát gần đất liền, Mỹ có thể chỉ biết trước vài giờ—nếu có.

Mỹ muốn sớm vạch trần sự chuẩn bị của Trung Quốc, như đã làm với cuộc xâm lược Ukraine của Nga, và tập hợp một liên minh quốc tế để phản đối. Điều đó sẽ dễ dàng hơn nếu ông Tập bắt tay vào một cuộc xâm lược tổng lực. Nhưng Trung Quốc có thể cố gắng khai thác sự mơ hồ về tình trạng của Đài Loan: Đài Loan không có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia khác. Nếu ông Tập trích dẫn một số “hành động khiêu khích” và bắt đầu bằng những hành động không mang tính chiến tranh, chẳng hạn như phong tỏa, thì Mỹ hoặc các đồng minh của họ có thể lờ đi.

Mỹ cũng phải cân nhắc mức độ chuẩn bị của mình có nguy cơ dẫn đến xung đột hay không. Đưa hàng không mẫu hạm đến khu vực để phô trương lực lượng? Triển khai quân đến Đài Loan? Đe dọa nguồn cung dầu của Trung Quốc qua eo biển Malacca? Tất cả đều có thể bị Trung Quốc coi là hành động khiêu khích, nếu không muốn nói là hành động chiến tranh.

Khi chiến tranh đến gần, Đài Loan sẽ di chuyển các tàu hải quân từ bờ biển phía tây dễ bị tổn thương sang phía đông, phía sau dãy núi chạy dọc theo phía đông của hòn đảo. Quốc gia này sẽ tìm cách giấu các máy bay chiến đấu phản lực trong các hầm trú ẩn dưới lòng đất và huy động 2,3 triệu quân nhân dự bị. Đài Loan cũng sẽ phải kiểm soát sự hoảng loạn lan rộng, khi nhiều người cố gắng chạy trốn và khi các tuyến giao thông với thế giới bên ngoài bị cắt đứt.

Mỹ cũng sẽ phân tán máy bay phản lực từ các căn cứ lộ thiên. Thủy quân lục chiến sẽ triển khai xung quanh các điểm thắt nút hàng hải. Các tàu ngầm Mỹ sẽ luồn dưới những con sóng tập trung gần Đài Loan. Một số chỉ huy quân sự của Mỹ và Đài Loan chắc chắn sẽ gây áp lực cho các cuộc tấn công quân sự chống lại lực lượng xâm lược đang được Trung Quốc gom lại. Họ có thể sẽ bị bác bỏ bởi những người đang tìm kiếm một giải pháp ngoại giao, hoặc ít nhất là không muốn bị đổ lỗi vì đã nổ phát súng đầu tiên.

Về phần mình, Trung Quốc sẽ phải đưa ra một quyết định quan trọng. Liệu nước này có nên giới hạn cuộc tấn công của mình vào Đài Loan, với hy vọng tạo ra một việc đã rồi khi Mỹ và các đồng minh của họ còn đang ngần ngừ? Hay Trung Quốc nên tấn công các lực lượng của Mỹ trong khu vực, tạo ra một Trân Châu Cảng mới? Lựa chọn đầu tiên sẽ khiến Mỹ tự do tấn công hạm đội xâm lược; lựa chọn thứ hai sẽ khiến Mỹ gần như chắc chắn sẽ toàn tâm toàn ý tham gia vào cuộc chiến, và có lẽ cả Nhật Bản nữa, nếu Trung Quốc tấn công các căn cứ của Mỹ ở đó.

Một cuộc xâm lược gần như chắc chắn sẽ bắt đầu bằng các cuộc tấn công tên lửa và tên lửa lớn vào Đài Loan. Những thứ này sẽ nhanh chóng phá hủy phần lớn lực lượng hải quân, không quân và phòng không của Đài Loan. Vương Hồng Quang, cựu phó chỉ huy khu vực PLA đối diện với Đài Loan, đã dự đoán vào năm 2018 rằng sẽ có 24 giờ oanh tạc—đầu tiên là các mục tiêu quân sự và chính trị, sau đó là các cơ sở hạ tầng dân sự như nhà máy điện và kho nhiên liệu. Ông cho rằng Trung Quốc sẽ làm mù các vệ tinh của Đài Loan, cắt cáp internet dưới biển và sử dụng chiến tranh điện tử để phá vỡ các hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Đài Loan, cản trở sự phối hợp với các lực lượng của Mỹ và đồng minh.

Tướng Vương cho biết cuộc tấn công dữ dội sẽ gây ra đủ tàn phá để mở ra ít nhất hai ngày cho cuộc xâm lược. Nếu quân Mỹ không đến trong vòng ba ngày, ông nói với giọng bề trên, “vậy đừng đến làm gì nữa, chỉ vô ích”. Trung Quốc cũng sẽ cố gắng hết sức để làm suy yếu ý chí chiến đấu của Đài Loan. Các chiến binh không gian mạng Trung Quốc sẽ cố gắng tấn công đài truyền hình và đài phát thanh địa phương, đồng thời spam binh lính Đài Loan bằng các tin nhắn văn bản và mạng xã hội, hứa trao phần thưởng cho những kẻ nổi loạn và đào ngũ.

Sau đó, Trung Quốc phải xử lý một thách thức ghê gớm – một cuộc tấn công đổ bộ, vốn là một trong những hình thức chiến tranh khó khăn nhất. Các bãi biển của Kim Môn, một hòn đảo của Đài Loan chỉ cách đất liền 3 km, rải rác những di tích của một cuộc xâm lược đã từng xảy ra vào năm 1949, khi các lực lượng Quốc dân đảng tiêu diệt hoặc bắt giữ gần như toàn bộ 9.000 quân Cộng sản đảng đổ bộ trên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ. Kể từ đó, PLA đã tiến rất xa, mua được vũ khí tiên tiến và nghiên cứu các tiền lệ như D-Day, cuộc đổ bộ do Mỹ dẫn đầu tại Incheon ở Hàn Quốc năm 1950 và việc Anh chiếm lại quần đảo Falkland từ Argentina năm 1982.

2. Xung đột trên bộ

Tuy nhiên, những rủi ro vẫn còn rất lớn. Trung Quốc đã không tham chiến kể từ khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979. Mặc dù eo biển Đài Loan chỉ rộng 130 km ở nơi hẹp nhất, nhưng hải lưu và thủy triều của nó rất mạnh và thất thường. Đổ bộ thường chỉ thuận lợi vào tháng 3-tháng 5 và tháng 9-tháng 10. Chỉ có 14 bãi biển của Đài Loan là thích hợp cho việc đổ bộ và chúng được củng cố nghiêm ngặt, đặc biệt là những bãi biển gần Đài Bắc, nơi các lực lượng Trung Quốc có thể muốn bắt đầu một cuộc xâm lược (xem bản đồ 1). Đài Loan đã xây dựng rất nhiều boong-ke và đường hầm trong khu vực này.

Cũng không chắc chắn rằng PLA có đủ tàu để vận chuyển đủ lực lượng đổ bộ nhanh chóng qua eo biển. Sẽ cần 300.000 đến 1 triệu quân để chắc chắn khuất phục được Đài Loan. Nước này có sáu lữ đoàn đổ bộ đóng quân gần đó, với tổng cộng 20.000 quân, cộng với một số lượng tương tự lính thủy đánh bộ. Nhưng các tàu đổ bộ của Trung Quốc có thể chỉ chở được khoảng 20.000 binh sĩ trong một hoặc hai ngày đầu tiên, tùy thuộc vào số lượng thiết bị mà họ mang theo. Tương tự như vậy, máy bay vận tải của PLA có thể chỉ vận chuyển được một nửa trong số 20.000 lính dù của họ trong giai đoạn mở đầu cuộc chiến. PLA gần đây đã thực hành sử dụng phà và các tàu dân sự khác, có thể mang theo nhiều đơn vị hơn, nhưng để hoạt động tốt, Trung Quốc sẽ cần phải chiếm được một cảng vẫn còn sử dụng được.

Bản đồ 2: Các chuỗi đảo thứ nhất và thứ 2 nhắc đến trong bài. Ảnh trên mạng

Cuộc chiến ở Ukraine cũng làm dấy lên những nghi ngờ mới, đặc biệt là về lực lượng bộ binh của Trung Quốc. Các tiểu đoàn vũ trang kết hợp của nó, bao gồm cả các tiểu đoàn đổ bộ, được mô phỏng theo các nhóm chiến thuật cấp tiểu đoàn của Nga, vốn đã gặp khó khăn ở Ukraine. Ngay cả khi Trung Quốc thành công trong việc nhanh chóng tiêu diệt các lãnh đạo Đài Loan, họ vẫn có thể phải đối mặt với cuộc chiến kéo dài chống lại họ, bắt chước việc sử dụng các bệ phóng tên lửa di động và máy bay không người lái của Ukraine.

Trong khi đó, chiến lược của Đài Loan là ngăn chặn cuộc đổ bộ ban đầu của Trung Quốc hoặc ngăn không cho nước này đưa đủ quân đến. Quân đội Đài Loan sẽ phong tỏa các cảng và bãi biển bằng thủy lôi, đánh chìm tàu và các chướng ngại vật khác. Được hỗ trợ bởi các máy bay và tàu hải quân còn sống sót, họ sẽ tấn công số quân đang tiến đến của Trung Quốc bằng tên lửa và tấn công quân đội Trung Quốc đang đổ bộ bằng pháo và tên lửa. Một số văn bản của PLA gợi ý rằng Đài Loan có các đường ống dưới nước ngoài các bãi biển của họ có thể thải ra chất lỏng dễ cháy. Một số hòn đảo xa của Đài Loan được bảo vệ bằng súng điều khiển từ xa.

Nếu PLA có thể thoát ra khỏi các bãi biển, nó sẽ phải đối mặt với một chặng đường dài vượt qua địa hình hiểm trở để đến được Đài Bắc và các trung tâm đô thị khác. Sau đó, cả hai bên sẽ phải đối mặt với một thách thức mà cả hai bên đều không được chuẩn bị đầy đủ: đó là chiến tranh đô thị. Đài Loan sẽ miễn cưỡng chiến đấu trong các thành phố của mình, vì sợ thương vong dân sự cao. PLA được huấn luyện cho chiến tranh đô thị, nhưng từ lâu đã tin tưởng vào một chiến thắng nhanh chóng nếu tiến đến Đài Bắc. Tuy nhiên, kể từ khi cuộc chiến ở Ukraine bắt đầu, cả hai bên đã thực hành chiến đấu ở các khu vực có nhà xây dựng nhiều hơn.

3. Không dễ lọt qua

Tuy nhiên, ngay cả khi một cuộc xâm lược của Trung Quốc bị sa lầy, thời gian sẽ không đứng về phía Đài Loan. Si-fu Ou thuộc Viện Nghiên cứu An ninh và Quốc phòng Đài Loan, một think-tank, cho biết: “Chúng tôi có thể chống lại họ trong một hoặc hai tuần nhưng không thể lâu hơn. Trừ khi các lực lượng Đài Loan kiên quyết chống lại, mọi thứ khác đều vô ích. Nhưng đồng thời, Đài Loan không thể hy vọng tự bảo vệ mình trong thời gian dài nếu không có sự giúp đỡ của Mỹ”.

Là một hòn đảo, Đài Loan không chỉ khó xâm chiếm hơn Ukraine mà còn khó hỗ trợ hơn. Các cảng của nó có thể bị phá hủy bởi Trung Quốc, lực lượng của chính họ hoặc thậm chí là của Mỹ. Việc cố gắng đưa quân tiếp viện hoặc tiếp tế đến hòn đảo này khi tên lửa Trung Quốc đang trút xuống sẽ khó gần như nỗ lực xâm lược.

Ít nhất, Mỹ và Đài Loan sẽ cần sự giúp đỡ từ các đồng minh. Nhật Bản, nơi có hàng chục nghìn lính Mỹ, đang có lực lượng hùng hậu. Philippines yếu về quân sự nhưng gần Đài Loan. Australia là đồng minh thân cận nhưng vũ trang khiêm tốn và ở xa hơn. Các quốc gia ở Thái Bình Dương có thể cung cấp các căn cứ hậu cần. Các đồng minh xa hơn, chẳng hạn như Anh, có thể gửi tàu hải quân. Một điều không chắc chắn là liệu Ấn Độ sẽ giúp được bao nhiêu. Rất nhiều điều sẽ phụ thuộc vào việc cuộc khủng hoảng diễn ra như thế nào và ai là người chịu trách nhiệm về nó.

Các kế hoạch giúp đỡ Đài Loan của Mỹ từng xoay quanh các hàng không mẫu hạm. Quốc gia này đã gửi một chiếc mẫu hạm đến khu vực này sau khi Trung Quốc bắn tên lửa gần Đài Loan vào năm 1995 và một chiếc nữa sau một loạt tên lửa khác vào năm 1996. Nhưng kể từ đó, Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào vũ khí “chống tiếp cận/phòng thủ khu vực” (A2/AD), được thiết kế để chống lại Mỹ. tàu và máy bay. Chúng bao gồm tên lửa DF-26, có thể tấn công sâu vào Thái Bình Dương (xem bản đồ 2) và các tên lửa siêu thanh mới khó đánh chặn hơn. Hải quân Trung Quốc hiện nay là lớn nhất thế giới, với một hạm đội tàu ngầm để tấn công các tàu Mỹ đang đến gần. Máy bay ném bom tầm xa của Trung Quốc cũng là một mối đe dọa. David Ochmanek của RAND Corporation, một tổ chức tư vấn đã điều hành các trò chơi chiến tranh được phân loại mô phỏng một cuộc xung đột ở Đài Loan, lập luận rằng các chiến lược cũ của Mỹ giờ đây “sẽ dẫn đến thất bại”.

Giải pháp thay thế của các nhà hoạch định Mỹ được tóm tắt bằng ba chữ D: làm rối loạn (disrupt) các hoạt động của Trung Quốc trong chuỗi đảo thứ nhất, bảo vệ (defend) các đồng minh trên chuỗi đảo này và thống trị (dominate) vùng biển và vùng trời bên ngoài. Mỹ phải vượt qua những vấn đề khó khăn: “sự chuyên chế về khoảng cách” ở Thái Bình Dương rộng lớn, sự phát triển của “khu vực tham gia vũ khí” của Trung Quốc để bao trùm các căn cứ của Mỹ ở phía tây Thái Bình Dương và khối lượng lớn nhân lực và vũ khí của Trung Quốc, vượt xa Mỹ trong nhiều lĩnh vực.

Nguy cơ bị Trung Quốc tấn công bằng tên lửa hoặc máy bay ném bom giảm dần theo khoảng cách (xem biểu đồ). Nhưng ngay cả đảo Guam, trung tâm quân sự lớn của Mỹ cách Trung Quốc khoảng 3.000 km, cũng dễ bị tổn thương. Hơn nữa, lực lượng phòng không của Mỹ mỏng một cách đáng lo ngại. Mỹ cũng có ít phương tiện phòng thủ thụ động, chẳng hạn như nhà chứa máy bay bằng bê tông.

Các sĩ quan Mỹ nói về viễn cảnh chiến tranh với sự pha trộn giữa sợ hãi trước sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc (“Mỗi ngày tôi đều kinh ngạc trước khả năng của họ,” một người nói), và sự lạc quan rằng các chiến thuật mới có thể đạt được chiến thắng. Họ nhấn mạnh “sát thương phân tán”, nghĩa là phân tán và di chuyển liên tục các lực lượng để tránh trở thành mục tiêu dễ dàng, đồng thời duy trì khả năng tập hợp hoặc phối hợp trong các cuộc tấn công. Điều này sẽ phụ thuộc vào kinh nghiệm chiến đấu chưa từng có của Mỹ với tư cách là một “lực lượng chung”, trong đó các nhánh quân sự và hệ thống vũ khí riêng biệt có thể hỗ trợ lẫn nhau.

Các máy bay phản lực quân sự sẽ phân tán từ các căn cứ lớn, tập trung trên không để chiến đấu và định cư ở những nơi chúng có thể trên các vùng đất trống. Họ sẽ lặp lại mô hình này càng nhanh càng tốt bằng cách tiếp nhiên liệu “nóng” khi động cơ đang chạy. Đôi khi máy bay đậu trong sân bay dân sự; đôi khi trên các sân bay bỏ hoang, nhiều sân bay có từ thế chiến thứ hai, đang được tân trang lại. Chuẩn tướng Paul Birch, chỉ huy Cánh 36 tại căn cứ không quân Andersen, ở Guam, cho biết bổ sung ngày càng nhiều bê tông để bảo vệ máy bay “là một việc làm ngu ngốc”. “Ở trên không trung an toàn hơn nhiều”.

Trong khi đó, các kỹ sư sẽ đặt mục tiêu sửa chữa các đường băng bị ném bom trong khoảng sáu giờ. Các đội mặt đất sẽ thiết lập các nhà chứa máy bay bật lên cũng như các trung tâm kiểm soát giao thông và liên kết dữ liệu. Một vấn đề đau đầu sẽ là làm thế nào để đưa nhiên liệu và đạn dược đến đúng nơi cần chúng. Một mục đích của “việc sử dụng chiến đấu linh hoạt” này là buộc Trung Quốc phải sử dụng hết kho tên lửa lớn nhưng hữu hạn của mình.

Thay vì chiến đấu gần Đài Loan, các tàu mặt nước của Mỹ có thể sẽ đứng xa hơn để đảm bảo an toàn, cung cấp hệ thống phòng không cho đảo Guam và các căn cứ hậu phương khác, đồng thời phong tỏa thương mại của Trung Quốc. Họ sẽ “đánh du kích” – lướt nhanh vào và sau đó chạy ra khỏi khu vực nguy hiểm – để bắn vào tàu và máy bay Trung Quốc.

4. Quân chủng anh em

Thủy quân lục chiến sẽ triển khai tới “địa hình hàng hải quan trọng”, đặc biệt là các đảo thống trị eo biển ngăn cách Đài Loan với Nhật Bản và Philippines. Họ sẽ củng cố quân đội địa phương, do thám các vị trí của Trung Quốc và trang bị các tên lửa mới sẽ được đưa vào sử dụng trong vài tháng tới, bắn vào tàu địch. Thủy quân lục chiến đang thành lập ba “trung đoàn ven biển” mới, mỗi trung đoàn có hơn 2.000 quân, từ bỏ xe tăng và nhiều pháo của họ.

Một số nhà phê bình nói rằng các đơn vị này sẽ quá dễ bị tổn thương; những người khác cho rằng, nếu không được triển khai đến chính Đài Loan, họ sẽ ở quá xa để có thể giúp ích nhiều trong trận chiến chính. Tuy nhiên, lực lượng thủy quân lục chiến lập luận rằng họ sẽ nhân lên gấp bội các mối đe dọa mà Trung Quốc phải đối mặt, “chuyển hướng” các tàu Trung Quốc vào các vị trí dễ bị tổn thương và trên hết là “quan sát và đánh giá” các hoạt động triển khai quân của Trung Quốc. Tướng David Berger, chỉ huy lực lượng thủy quân lục chiến, nói về việc “lật ngược thế cờ” với Trung Quốc bằng cách sử dụng chiến lược A2/AD để bảo vệ chuỗi đảo đầu tiên. Ông nói: “Mỹ sẽ không phải chiến đấu để tiến vào”. Chúng tôi kiên trì ở đó, 52 tuần một năm”.

Chiến tranh phân tán tuy không hiệu quả, nhưng tạo khả năng phục hồi. Tuy nhiên, để thành công, nhiều thứ cần phải sắp xếp tốt đẹp. Đầu tiên, các mạng chỉ huy và kiểm soát phải có khả năng chống lại cuộc tấn công điện tử của Trung Quốc. Các nhà lập kế hoạch nói về một “trang web tiêu diệt” chưa được hoàn thiện, trong đó trí tuệ nhân tạo giúp “các cảm biến” và “các xạ thủ”—kể cả của các đồng minh—hoạt động cùng nhau ngay cả khi cách xa nhau. Thủy quân lục chiến trên các đảo, máy bay chiến đấu tàng hình F-35, máy bay không người lái và nhiều thứ khác đều có thể hoạt động như các mối liên lạc. Thứ hai, Mỹ sẽ cần hậu cần tinh vi hơn để cung cấp cho các đơn vị ở xa. Cuối cùng, nó phải thuyết phục các đồng minh dám mạo hiểm trước cơn thịnh nộ của Trung Quốc. Sự sẵn sàng của họ sẽ chỉ trở nên rõ ràng khi chiến sự nổ ra, điều này làm phức tạp hóa kế hoạch.

Vào đầu cuộc chiến, công việc đánh chìm hạm đội xâm lược của Trung Quốc – nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo vệ Đài Loan – chủ yếu sẽ giao cho tàu ngầm và máy bay ném bom tầm xa. Mặc dù số lượng thuyền ít hơn so với Trung Quốc, nhưng Mỹ vẫn giữ được lợi thế trong chiến tranh dưới nước. Các tàu ngầm tấn công của nó mang theo ngư lôi, tên lửa hành trình và thủy lôi. Tuy nhiên, sớm muộn gì thì chúng cũng sẽ hết đạn dược và sẽ phải rút lui trong vài ngày để bổ sung đạn dược ở những nơi như Guam, nơi chúng dễ bị tổn thương.

5. Quá xa

Trong khi đó, các máy bay ném bom bay từ Hawaii, Alaska và lục địa Mỹ sẽ sử dụng các loại đạn có thể bắn từ ngoài tầm với của tên lửa phòng không Trung Quốc. Nhưng tên lửa chống hạm tầm xa của Mỹ, có thể di chuyển 200 hải lý trở lên, có thể sẽ hết sạch trong vòng một tuần. Sau đó, các lực lượng Mỹ sẽ phải tiến lại gần Đài Loan để đánh chìm tàu. Hy vọng của Mỹ là đến lúc đó Trung Quốc cũng đã hết đạn dược tầm xa.

Mỹ và Trung Quốc sẽ tranh luận xem có nên tấn công vệ tinh của nhau hay không và khi nào thì có khả năng biến quỹ đạo tầm thấp của Trái đất thành một bãi phế liệu. Một số trò chơi chiến tranh gợi ý rằng họ có thể không làm như vậy vì sợ làm hại bản thân. Nhưng như một quan chức quân sự cấp cao của Mỹ đã nói: “Bên nào nổ súng trước sẽ có lợi thế lớn”.

Đồ thị 3: Khả năng tấn công của Mỹ và Trung Quốc, tính theo khoảng cách. Ảnh trên mạng

Mọi giai đoạn của cuộc chiến sẽ diễn ra dưới cái bóng của vũ khí hạt nhân. Ông Biden đã nói về việc giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào vũ khí hạt nhân và Trung Quốc tán thành việc “không sử dụng trước”. Nhưng nguy cơ thảm họa có lẽ đang tăng lên khi Trung Quốc mở rộng kho vũ khí của mình. Quốc gia này sẽ phát triển từ 400 đầu đạn hoặc hơn như hiện nay, theo tính toán của Lầu Năm Góc, lên 1.000 đầu đạn vào năm 2030 (vẫn ít hơn so với Mỹ và Nga). Một trò chơi chiến tranh gần đây được thực hiện bởi Trung tâm An ninh Mỹ Mới, một nhóm chuyên gia cố vấn, cho rằng cả hai bên đều đánh giá thấp nguy cơ leo thang. Điều này sẽ tăng lên nếu một trong hai bên tấn công vào đất liền của bên kia hoặc nếu xung đột trở nên kéo dài.

Tổn thất của một cuộc chiến tranh thông thường thuần túy sẽ rất tàn khốc đối với người chiến thắng cũng như kẻ thua cuộc. Một trò chơi chiến tranh của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, một tổ chức tư vấn khác của Mỹ, đã phát hiện ra rằng theo “kịch bản cơ bản” của mình, các lực lượng Đài Loan, Mỹ và Nhật Bản thường cắt đứt các tuyến tiếp tế của PLA sau khoảng mười ngày, khiến khoảng 30.000 quân Trung Quốc mắc kẹt trên đảo . Đài Loan sẽ tồn tại như một thực thể tự trị, nhưng không có điện và các dịch vụ cơ bản. Mỹ và Nhật Bản cũng bị thiệt hại, sẽ mất 382 máy bay và 43 tàu, trong đó có hai hàng không mẫu hạm của Mỹ. Trung Quốc mất 155 máy bay và 138 tàu.

Chi phí kinh tế cũng sẽ rất lớn. RAND ước tính vào năm 2016 rằng một cuộc chiến kéo dài một năm đối với Đài Loan sẽ làm giảm 25-35% GDP của Trung Quốc và 5-10% của Mỹ. Tập đoàn tư vấn Rhodium Group đã kết luận vào năm 2022 rằng sự gián đoạn nguồn cung chất bán dẫn (Đài Loan sản xuất 90% chip máy tính tiên tiến nhất thế giới) sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt hàng điện tử trên toàn cầu, dẫn đến thiệt hại “khôn lường” cho nền kinh tế thế giới.

Với những hậu quả kinh hoàng như vậy, liệu Mỹ và Trung Quốc có thực sự gây chiến? Các quan chức Trung Quốc cho biết lựa chọn ưa thích của họ vẫn là thống nhất một cách hòa bình và phủ nhận về mọi lịch trình cho một cuộc tấn công. Trung Quốc cũng có nhiều lựa chọn thay vì phải áp dụng một cuộc xâm lược tổng lực. Chúng bao gồm cưỡng chế kinh tế, phong tỏa toàn bộ hoặc một phần và chiếm giữ các đảo xa xôi như Kim Môn. Trung Quốc có thể bắt tay vào loại hoạt động “vùng xám” này để thay thế hoặc mở đầu cho một cuộc tấn công rộng lớn hơn.

Ông Tập có động cơ mạnh mẽ để chờ đợi thời cơ của mình, đặc biệt là vì lực lượng của ông đang phát triển, trong khi chi tiêu quốc phòng của Mỹ gần mức thấp nhất trong 80 năm tính theo tỷ trọng GDP. Nhưng ông Tập cũng có thể cảm thấy áp lực phải tấn công nếu Đài Loan ngừng vờ vịt rằng họ có thể hòa giải với đại lục và chính thức tuyên bố độc lập, hoặc nếu Mỹ triển khai quân đội đến Đài Loan. Cuộc xung đột kéo dài một năm ở Ukraine là bằng chứng cho thấy một nhà độc tài theo chủ nghĩa bất phục tùng có thể tính toán sai lầm một cách đáng sợ. Zhou Bo, một cựu sĩ quan cấp cao trong PLA, lưu ý rằng để đạt được mục tiêu của mình, Trung Quốc không cần phải vượt qua sức mạnh toàn cầu của Mỹ; nó chỉ cần đạt được một lợi thế ở phía tây Thái Bình Dương.

Nhiều chiến lược gia ở Mỹ và châu Á lo ngại rằng việc mất Đài Loan sẽ thay thế trật tự do Mỹ lãnh đạo trong khu vực này bằng trật tự do Trung Quốc lãnh đạo. Nhật Bản và Hàn Quốc có thể cảm thấy bắt buộc phải phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình. Thay vì kiềm chế Trung Quốc, chuỗi đảo đầu tiên sẽ trở thành nền tảng để nước này triển khai sức mạnh ra xa hơn. “Đài Loan là đòn bẩy để giành lại lợi thế,” như một quan chức quân đội Mỹ đã nói.

Mỹ được an ủi từ những thất bại của Nga ở Ukraine, khi Mỹ tin rằng chúng đã làm gia tăng nghi ngờ của ông Tập về khả năng chiếm Đài Loan của ông. Nhưng để duy trì sự cân bằng bấp bênh trên eo biển Đài Loan, Mỹ phải hành động với sự tinh tế cao. Mỹ cần củng cố sự do dự của ông Tập bằng cách củng cố bản thân, các đồng minh và Đài Loan, nhưng không đi xa đến mức khiến ông Tập lại nghĩ rằng Trung Quốc sẽ phải tấn công sớm hơn, không thì sẽ chẳng bao giờ chiếm Đài Loan được nữa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.