Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Chuyện Dài Bong Bóng Trung Quốc

>>Trang chủ » Tư Duy Đại Dương » Chuyện Dài Bong Bóng Trung Quốc

Chuyện Dài Bong Bóng Trung Quốc

6 “nút thắt cổ chai” đang bóp nghẹt nền kinh tế Trung Quốc

Tác Giả: Chuyên gia kinh tế Hà Thanh Liên (Trung Quốc) – 28 May 2015
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang chậm lại – các số liệu thực tế đã chỉ ra rất rõ ràng. Nhưng để xây dựng một nền kinh tế lành mạnh, rất nhiều trở ngại lớn mà Trung Quốc đang phải đối mặt không phải lúc nào cũng dễ nhận biết. Một chuyên gia kinh tế nổi tiếng người Trung Quốc đang sinh sống tại Hoa Kỳ đã xác định 6 vấn đề có thể chấm dứt sự tăng trưởng kinh tế của nước này.
chinauntitled
Phát biểu tại một diễn đàn được tổ chức bởi Tập đoàn Tài chính Shenglin tại Vancouver vào ngày 3/5, chuyên gia kinh tế Hà Thanh Liên cho biết có 6 “nút thắt cổ chai” chính – trong đó chỉ cần 3 yếu tố là có thể lật đổ một đảng ở một nước dân chủ – có thể có tác động mạnh mẽ tới tương lai của Trung Quốc nếu nó không được giải quyết, bà cho hay. Sau đây là nội dung bài phân tích đã được chỉnh sửa và rút gọn lại của bà.
Đánh mất vị thế “công xưởng của thế giới”
Cái gì đi lên thì đều phải đi xuống: Sự bùng nổ của lĩnh vực sản xuất tại Trung Quốc, được thúc đẩy từ năm 2001 đến năm 2010 với một cái giá phải trả khổng lồ đối với hệ sinh thái và người dân của nước này, đang không ngừng suy giảm.
Thành phố Đông Quan, một thành phố công nghiệp quan trọng thuộc tỉnh phía nam Trung Quốc – Quảng Châu, đang trải qua làn sóng sụp đổ doanh nghiệp thứ hai – ít nhất 4.000 doanh nghiệp đã ngừng hoạt động vào năm ngoái. Từ năm 2008 đến 2012, dữ liệu chính thức cho thấy 72.000 doanh nghiệp đã bị đóng cửa.
Hơn nữa, 3 đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc – đầu tư, ngoại thương, và nhu cầu nội địa – gần như đã sụp đổ, có thể thấy từ sự suy giảm 15% của cán cân thương mại trong quý 1 năm nay so với cùng kỳ năm ngoái.
Bất động sản đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong 20 năm qua. Chính quyền và các doanh nghiệp đã liên kết với nhau để ngăn chặn sự sụp đổ của thị trường nhà đất, nhưng vài chục ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn của lĩnh vực bất động sản đã rơi vào tình trạng dư thừa sản suất từ năm 2013. Tình trạng dư thừa sản phẩm được mô tả như là một “mối đe dọa hạt nhân” đối với nền kinh tế Trung Quốc, vốn có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng kinh tế bất cứ lúc nào.
Những vấn đề này cho thấy việc tái cơ cấu nền kinh tế của Trung Quốc là vô vọng. Cái gọi là điều chỉnh cơ cấu kinh tế không thể giải quyết mọi thứ như chính quyền Trung Quốc kỳ vọng. Ngay từ năm 2005, tỉnh Quảng Đông đã bắt đầu thay thế các ngành công nghiệp thâm dụng lao động bằng các ngành công nghiệp công nghệ cao. Kết quả là ngành công nghiệp sản xuất đã chuyển dịch khỏi Đồng bằng Châu Giang.
Số lao động thất nghiệp lớn
Tỷ lệ thất nghiệp chính thức, chiếm khoảng 4,5% tổng số lao động Trung Quốc, là không chính xác, bởi vì con số này chỉ bao gồm những người đã đăng ký với chính quyền địa phương trong khi chưa tính đến số nông dân thất nghiệp vốn mới là thành phần đóng góp chính vào lực lượng lao động.
Ở Trung Quốc hiện nay, những người thất nghiệp có thể được chia thành bốn nhóm: lao động nông nghiệp dư thừa do quá trình chuyển dịch đảo ngược (ví dụ, về quê) khi các nhà máy đóng cửa; nhóm lao động thành thị cổ cồn trắng bị mất việc do sự rút vốn của nước ngoài; sinh viên bỏ học giữa chừng; và học sinh trung học thôi học.
Cựu Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã ước tính số người thất nghiệp đứng ở mức 200 triệu người vào tháng 3/2010. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos tháng 3 vừa qua, cựu Phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) – ông Justin Lin cho biết có 124 triệu công nhân Trung Quốc tại các nhà máy đang muốn chuyển sang các nước đang phát triển khác để tìm kiếm mức lương cao hơn.
Với 940 triệu người trong độ tuổi lao động ở Trung Quốc hiện nay, một khi có 300 triệu người thất nghiệp thì tỷ lệ thất nghiệp thực tế là tương đương với 32% – gấp 7 lần so với con số dự kiến chính thức.
Khủng hoảng tài nguyên
Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã làm cho nguồn nước, đất đai và không khí ô nhiễm như một sự cảnh tỉnh – một điều gì đó sẽ quay trở lại ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong tương lai và gia tăng sự phụ thuộc vào nguồn lực nước ngoài.
Không phải là Trung Quốc không được dựa vào các nguồn lực nước ngoài để thúc đẩy nền kinh tế – nước này nhập khẩu hơn 60% lượng dầu tiêu thụ của mình, và phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu sắt, đồng, kẽm cũng như các loại quặng kim loại khác.
Lượng lương thực tự cung cấp của Trung Quốc đạt 87% – các mặt hàng chủ lực như đậu nành, ngô và lúa mì đều phải nhập khẩu. Viễn cảnh về tình hình sản xuất lương thực của Trung Quốc trong tương lai là có gần 200 triệu người sẽ phải dựa vào nguồn lương thực nhập khẩu.
Bất kỳ biến động về giá ngũ cốc của Trung Quốc đều sẽ ảnh hưởng tới giá cả thị trường quốc tế, và bất kỳ thảm họa tự nhiên hay chiến tranh tại một đất nước sản xuất ngũ gốc sẽ làm giảm nguồn cung và khiến giá ngũ cốc tại Trung Quốc tăng lên.
Không phải là chính quyền Trung Quốc không nhận được cảnh báo về các vấn đề lương thực. Trong cuốn sách của Lester Brown, “Who Will Feed China”, (Tạm dịch: Ai sẽ cung cấp lương thực cho Trung Quốc), chuyên gia phân tích môi trường này đã từng cảnh báo chính quyền Trung Quốc từ cách đây 20 năm rằng họ sẽ phải đối mặt với tình trạng khan hiếm lương thực. Nhưng chính quyền Trung Quốc nói báo cáo này là một âm mưu của “các thế lực chống đối Trung Quốc”.
Nợ của chính quyền địa phương đang tăng dần
Công ty tư vấn McKinsey & Company đã công bố vào ngày 8/5 rằng tổng nợ của Trung Quốc đã ở mức 282% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Hầu hết khoản nợ này được tạo thành từ nợ của chính phủ và doanh nghiệp – nợ cá nhân chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong đó.
Nợ của chính quyền địa phương chiếm tỷ lệ lớn nhất, với giá trị ước tính vào khoảng 20 nghìn tỷ nhân dân tệ. Con số nợ của Trung Quốc đã liên tục bị báo cáo thiếu – trong khi quan chức của Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, ông Li Tie thừa nhận rằng con số chính thức 18 nghìn tỷ nhân dân tệ là ít hơn một nửa so với số nợ thực tế. Các cuộc điều tra cho thấy hầu hết các chính quyền địa phương đều chỉ báo cáo từ 10% đến 30% số nợ thực tế của họ, nghĩa là con số thực tế cao hơn một cách đáng kể.
Khủng hoảng tài chính tiềm tàng
Các khoản nợ, tỷ lệ vỡ nợ gia tăng, và thặng dư thanh khoản lớn do các chính sách của ngân hàng trung ương có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính.
Trung Quốc hiện đang trải qua giai đoạn đỉnh điểm của các khoản nợ xấu lần thứ 3 do thị trường bất động sản gây ra. Lần thứ nhất diễn ra vào thời kỳ Chu Dung Cơ khi khoản nợ 170 tỷ USD đã phải mất tới 6 năm để trả hết. Cuộc khủng hoảng thứ 2 là vào giữa những năm 2000, và đã được gánh bớt bởi các ngân hàng nước ngoài. Nhưng sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc đã được thúc đẩy bởi một nguồn cung tiền mới được in liên tục trong nhiều năm qua, và với lượng tăng cung tiền quá lớn, dư thừa thanh khoản có thể bắt đầu trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Điều này nổi bật trong những tháng gần đây với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán khi thị trường này được sử dụng như một kho chứa vốn dư thừa – một chính sách tất yếu không bền vững.
Chênh lệch thu nhập
Bất bình đẳng ở Trung Quốc đã đạt mức kỷ lục trong vòng 20 năm qua do sự phớt lờ của chính quyền và các doanh nghiệp. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Xã hội Trung Quốc của Đại học Bắc Kinh đã công bố một nghiên cứu vào năm 2014, cho thấy hệ số Gini của Trung Quốc đã đạt 0,73 vào năm 2012 – điều này có nghĩa là 1% các hộ gia đình giàu có nhất Trung Quốc đã nắm hơn 1/3 lượng của cải của cả quốc gia, trong khi 25% các hộ gia đình nghèo nhất chỉ có 1% số tài sản quốc gia.
Gần 60% người dân Trung Quốc là người nghèo, một tình trạng bất ổn đủ để gây ra sự mất ổn định xã hội.
(Thu Hiền biên dịch theo bản chỉnh sửa của Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh)

Sáng như Lú!!!

Sáng như Lú!!!

noreply@blogger.com (danlambao)9:25 PM


Vũ Đông Hà (Danlambao) - Trong sứ mạng mò kim ao cá bác Hồ để đi tìm những tên đầy tớ có "tâm" như Hồ Quang, có "đức" như C.B. có "trong"và "sạch" như Trần Dân Tiên vừa đi đường vừa thò tay tự nâng củ kiệu dưa leo, Tổng bí lú đã gọi đó là công tác "tìm viên ngọc sáng"! Tiêu chuẩn của Tổng bí lú là: "phải tìm cho được những bông hoa đẹp nhất, những viên ngọc sáng nhất, xứng đáng nhất, được dân và đảng viên tín nhiệm." (1) 

Có tìm được không?

Câu trả lời chắc cú: được 99%! Đảng dĩ đại đã từng tìm được bông hoa đẹp nhất kiểu ĐM thiến lợn, viên ngọc sáng nhất cỡ ĐM họ Nông, và đã tìm được tên Lú xứng đáng nhất, đệ nhất cao thủ lú trong cái gọi là "thời đại huy hoàng nhất của đất nước Hồ Chí Minh" (2) để ngồi vào ghế TBT trong những nhiệm kỳ vừa qua thì cớ gì không tìm được một viên ngọc giông giống như ĐM Mạnh Lú cho triều đại cuối cùng của đảng cộng.

Câu trả lời ở trên dừng lại con số phần trăm 99%, thiếu mất 1% bởi vì có 1 điều không thể thực hiện được. Đó là cái vụ được dân tín nhiệm.

Lý do là dựa vào tiến trình quy hoạch mùa màng nhân sự tương lai của cái đảng từng đã được Tư Sang, Trọng Lú thú nhận là nhiều sâu lắm chuột nhưng đùng một cái bây giờ nhìn đâu cũng chỉ (nghe) toàn là ngọc sáng, hoa thơm: ứng cử viên BCHTƯ được giới thiệu, lựa chọn từ ba nguồn: (1) danh sách quy hoạch nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo; (2) các ủy viên trung ương khóa XI đủ chuẩn tái cử; (3) các đảng viên ngoài danh sách quy hoạch, gồm những người có đức, có tài, có tín nhiệm và có triển vọng về khả năng lãnh đạo quản lý, đủ tiêu chuẩn tham gia trung ương khóa XII. 

Trong quy hoạch mùa màng từ 3 nguồn phân bón này, nguồn nào cũng là nguồn của đảng, có ông bà chủ nhân mang tên DÂN nào lọt vào để tham gia ý kiến, ý cò gì đâu để mà có chuyện "dân tín nhiệm". Nói cho cùng thì mấy ông bà DÂN vô sản, nghèo rớt mồng tơi, đi xem bắn pháo bông cho đỡ đói, thì biết cái đếch gì về ngọc sáng, ngọc trong để mà chọn lựa... nữ trang cho con nạ dòng Hồ Thị Đẻng!

Vì thế thị Đẻng phải đẻ ra điều 4 hiến pháp.

Vì thế cho nên mới có tuyên bố bỏ điều 4 tức là thị Đẻng vung đao tự... đổ mười.

Ngọc sáng, ngọc trong, ngọc lú, ngọc lẫn gì cũng chết với (dân) chúng nó nếu (đảng) ta không tự mò, tự mẫm, tự nâng, tự niu, tự sung, tự sướng những hòn bi của nhau để vo ve thành những ngọc hoàn láng cóng như hòn bi dĩ đại của Trần Dân Tiên mà cha già DT đã từng vân vê bên vệ đường cắt mạng ngày nào.

Trao sứ mạng tìm viên ngọc sáng đó cho dân thì chúng... bóp cho mà chết!!!



___________________________________

Chú thích:


XHCN/VN là: Lòng nhân ái cũng phải chịu thuế?

XHCN/VN là: Lòng nhân ái cũng phải chịu thuế?

noreply@blogger.com (Danlambao 2012)5:43 PM


Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - Nó không tương thích chút nào với khẩu hiệu danh xưng: CH/XHCN Việt Nam. Khi xã hội như kiệt sức với quá nhiều “Lệ” (“lệ” làng) phí, tự đẻ ra tùy tiện thu, bất hợp lý, không mang tính phổ quát đồng bộ với cộng đồng thế giới, trái với bảng quảng cáo tất cả là vì và cho “chủ nghĩa xã hội”.

Sáng 29/5/2015, nghị trường Quốc hội Việt Nam như “nóng ran” khi thảo luận về Dự thảo Luật thu phí và Thu lệ phí.

Dù là “đảng viên CS phe ta” nhưng các đại biểu (ĐB) QH, cũng phải “nhức đầu” để gay gắt trước con số 51 khoản phí và 39 khoản lệ phí được đề cập Danh mục đưa ra bàn luận khi nó chỉ là con số liệt kê chia theo lĩnh vực, còn cụ thể thực tế thì có đến cả trăm khoản phí và vài trăm khoản lệ phí đã và đang thu từ người dân không có thống kê đi kèm để tham khảo.

Nó không tương thích chút nào với khẩu hiệu danh xưng: CH/XHCN Việt Nam. Khi xã hội như kiệt sức với quá nhiều “Lệ” (“lệ” làng) phí, tự đẻ ra tùy tiện thu, bất hợp lý, không mang tính phổ quát đồng bộ với cộng đồng thế giới, trái với bảng quảng cáo tất cả là vì và cho “chủ nghĩa xã hội”.

Không ở đâu trên thế giới này, người tiêu dùng lại phải đóng nhiều loại thuế và phí đến thế khi mua và sử dụng một chiếc ôtô như ở Việt Nam (3 loại thuế 7 loại phí). Khiến giá xe ở Việt Nam một nước nghèo có lúc người dân cần một phương tiện như ô tô để làm công cụ giao dịch trong kinh doanh lại phải bỏ ra chi phí cao gấp 2,5 lần so với một nước phát triển và có thu nhập bình quân đầu người cao hơn VN nhiều lần như người dân Mỹ.

Một ví dụ điển hình:

Xe đơn giản, loại “Hàn Quốc” phổ biến ở Phương Tây

Một chiếc Hyundai Santa (Loại xe “bình dân” ở Mỹ) có giá 23.000USD và người dân Mỹ cũng chỉ đóng thêm 2 loại thuế phí tổng cộng cả chiếc xe là 35.000USD để lưu thông trên đường. Nhưng tại Việt Nam ngoài giá xe nó còn phải gánh thêm 3 loại thuế, 7 loại phí (3 loại thuế: thuế TTĐB-TNK và VAT - 7 loại phí bao gồm: phí trước bạ, phí biển số, phí đăng kiểm, phí bảo hiểm, phí xăng dầu, phí quỹ bình ổn và phí bảo trì đường bộ) tổng cộng khoảng 83.000USD (hơn 1,7 tỷ đồng) xe mới được lăn bánh trong khi tại Việt Nam có mức thu nhập bình quân 1.900.USD/người/năm. Ở Mỹ con số này là 47.084 USD/người/năm, cao hơn 25 lần ( Thu nhập rất cao mua xe giá rẻ, thu nhập rẻ (thấp) phải mua xe giá cao)?.

Nhưng đó chưa phải là tất cả, dù đã trả 2 cái phí (phí xăng dầu và phí bảo trì đường bộ) nhưng nếu đi từ Nam ra Bắc hay ngược lại, chiếc xe phải tự ói tiền ra trước “ma trận mãi lộ” Trạm Thu Phí khi đi qua mỗi tỉnh thành? mà cụ thể dễ thấy nhất là tại TP/HCM, Gần như là muốn vào thăm “Bác” (tượng HCM bằng đồng cao 4m trước UBND/TP) bằng xe con là phải trả tiền!? khó lòng trốn thoát.

Ma trận bủa vây -15 trạm thu phí ở TP.HCM

Điều hài hước đáng nói hơn nữa là có những “lệ” phí để thu mà người bị thu không biết tại sao họ phải trả cho những khoản họ không hiểu nổi? Như là khoản thu có cái tên:

“Lệ phí hoa hồng chữ ký”? mà ĐB/QH Lê Đình Khanh (Tỉnh Hải Dương) bức xúc như điên cái đầu bởi không thể nào hiểu nổi”? Chẳng lẽ một văn bản để có được chữ ký theo qui định thì ai đó có trách nhiệm ký sẽ được một khoản tiền như hối lộ công khai? Không hối lộ là không được ký? Ông Khanh viện dẫn thêm: Nhiệm vụ của Bảo hiểm y tế (BHYT) là phải phòng ngừa bệnh thật tốt để người dân không bị bệnh thì Quỹ BHYT mới có dư, mới tích lũy ngân quỹ. Dân đã đóng tiền mua BHYT tức là đã đóng cả phần phòng bệnh - Thế mà lại còn quy định bắt dân đóng thêm “Lệ phí phòng chống dịch bệnh” nữa?. (tienphong.com.vn - 30/5).

ĐB/QH Trần Du Lịch (TPHCM) thì cho rằng thật vô lý: “Ngư dân đi biển, qua xăng dầu đã đóng phí “môi trường” trên đất liền (dù 90% thời gian họ đánh bắt ngoài biển khơi) phải khuyến khích họ bám biển khẳng định ngư trường Việt nam, sao lại bắt họ phải đóng thêm phí môi trường nữa”?

ĐB Ngô Văn Minh (Quảng Nam) thì trăn trở cọ xát với khung sườn XHCN khi ông phát biểu “Các nước tư bản họ làm mọi cách để miễn giảm học phí, viện phí cho tầng lớp thu nhập thấp trong xã hội mà ta là nước “xã hội chủ nghĩa” sao lại quy định học phí, viện phí theo giá cập nhật thị trường?."

ĐB Trần Dương Tuấn (Bến Tre) đề cập đến việc thu phí bảo trì đường bộ đối với xe gắn máy cá nhân, ĐB này đề nghị nên bãi bỏ vì hiện nay người dân đi ô tô, xe máy đều phải đóng phí bảo trì đường bộ trong giá nhiên liệu rồi. "Từ đầu năm đến nay cũng chỉ thu được 5%...Theo tôi nên bỏ cái này đi",ông Tuấn nói.

ĐB Bùi Thanh Quyến, Tỉnh Hải Dương phát biểu như đi trong ruột các quan chức ở ban, bộ nhà nước: “Luật Thuế và lệ phí tác động rất lớn đến đời sống người dân nên cần phải thận trọng, vì vậy luật thì không nên có câu chỉ thu “trong trường hợp đặc biệt…”. Ngành nào, Bộ nào khi đưa ra QH xin phúc quyết cũng có câu “thòng” như thế nhưng QH quyết rồi lại bổ ra thu vô tội vạ của người dân là không hợp lý, đến khi dân kêu thì lại giải thích thế này, thế kia, đó chỉ là cách áp đặt, chứ dân không hề đồng tình đâu”

Cuối cùng là một thứ “lệ” phí không nơi nào trên thế giới này có và đạo lý con người cũng không bao giờ dám đề cập, nhưng “nhà nước CS/XHCN ta” rất hiên ngang đưa ra QH xin cho được thu, là thu: “Lệ phí đăng ký nuôi con nuôi và lệ phí cấp phép nuôi con nuôi”. (Tiền Phong online 30/5/2015)

Những sinh linh mầm sống chẳng bao giờ biết chọn cửa sinh ra - Thông thường bất cứ xã hội nào cũng có những phận người nhỏ bé không may chào đời mà không có, không còn ai bảo bọc, nhà nước nếu cưu mang không nỗi thì nên khuyến khích những vòng tay nhân ái mở rộng ôm ấp dưỡng nuôi theo đạo lý tình người của dân tộc, sao lại chủ trương đè thu: "Lệ phí đăng ký nuôi con nuôi và Lệ phí cấp phép nuôi con nuôi”!?. Cái “thông lệ” nào bất nhân hoang dã như thế? Vậy mà nhân danh “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa” của đảng CSVN xin QH đồng ý cho thu như là: Lòng Nhân Ái cũng phải “đóng thuế”? Không dám bình luận. Nhường phần này cho bạn đọc, đồng bào tôi.

20/05/2015


Tượng đứng tượng ngồi: bác Hồ hay bạc Đô

Tượng đứng tượng ngồi: bác Hồ hay bạc Đô

noreply@blogger.com (danlambao)4:32 AM


Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Người không biết cứ tưởng các chú ấy đặt bác ngồi đứng lung tung xòe khắp nơi như vậy là do lòng kính trọng tôn thờ Bác Hồ, nhưng thực chất là chẳng phải vì Bác Hồ mà vì Bạc Đô! Một tượng bác được nặn ra, bác "ăn" thì ít mà các chú ấy ăn thì nhiều. Từ khâu nặn bác, đúc bác, các chú ấy đã có ăn, rồi đến khâu soạn chỗ cho bác ngồi, lại có ăn, nay dẹp bác đi cũng có ăn, để sau đó thay bác đứng lại càng ăn to hơn vì bệ bác đứng cao to hơn, thân mình bác vĩ đại hơn; nói chung tượng bác ngồi chuyển sang tượng bác đứng, các chú ấy đều có "chuyển khoản".

Thể phách là tượng Bác Hồ
Tinh anh là tượng Bạc Đô rõ ràng
Cu Tèo đó hả,

Lâu lắm rồi, nay bác cháu ta mới lên mạng gặp nhau. Bác Hồ hồ hởi phấn khởi cách chi. Cảm ơn Tèo đã tạo cơ hội cho bác cháu mình giao lưu để trút bầu tâm sự. Như Bác đã bày tỏ nguyện vọng của bác trong meo gửi Tèo khoảng mười năm trước, rằng Tèo, tuy đã bỏ khăn đỏ chạy mặt bác để lấy (người) Cu đã sáu mươi năm cuộc đời rồi, nhưng là người ăn ở có hậu, vẫn chấp nhận cho bác làm chỗ dựa tinh thần trong lúc cô đơn lạnh lẽo trong cái mã lớn gọi là Lăng Ba Đình.

Bác báo cáo, à quên, bác thú thật, rằng thì là, đọc meo Cu gửi bác vừa rồi, Bác không cầm được nước mắt vì thấy bác tội nghiệp hết sức: nay thì bị bắt ngồi xõa giữa chợ bế em, mai thì phải đứng nghiêm đưa tay chào ông đi qua bà đi lại, bất chấp mưa nắng nóng lạnh đêm ngày, chẳng có được cái nón rách che đầu, manh chiếu sờn bọc thân.

Mà nào bác phải ngồi một nơi, đứng một chỗ cho cam; đàng này các chú ấy bắt bác đứng, ngồi khắp mọi nơi; hễ có chỗ nào đặt được bác là các chú ấy cứ dí bác vào đấy. Người không biết cứ tưởng các chú ấy đặt bác ngồi đứng lung tung xòe khắp nơi như vậy là do lòng kính trọng tôn thờ Bác Hồ, nhưng thực chất là chẳng phải vì Bác Hồ mà vì Bạc Đô! Một tượng bác được nặn ra, bác "ăn" thì ít mà các chú ấy ăn thì nhiều. Từ khâu nặn bác, đúc bác, các chú ấy đã có ăn, rồi đến khâu soạn chỗ cho bác ngồi, lại có ăn, nay dẹp bác đi cũng có ăn, để sau đó thay bác đứng lại càng ăn to hơn vì bệ bác đứng cao to hơn, thân mình bác vĩ đại hơn; nói chung tượng bác ngồi chuyển sang tượng bác đứng, các chú ấy đều có "chuyển khoản".

Như Tèo biết, tục ngữ ta có câu "vải thưa đòi che mắt thánh", trong khi mắt cáo còn tinh hơn cả mắt thánh, nên bác biết tỏng hết việc các chú ấy hết bắt bác ngồi bế em - con Phượng Yêu bây giờ đã có quốc tịch Mỹ, gọi là "Bê bi xít tơ xít lụa" gì đó (Babysitter) - nay lại bắt bác đứng nghiêm giơ tay chào ông đi qua bà đi lại 24 giờ trên 24 giờ, 7 ngày một tuần, tuần trên tuần, tháng trên tháng... cho đến khi chú Trọng Lú xây dựng xong CNXH không biết cuối thế kỷ này đã xong chưa. 

Cu Tèo ơi, rõ ràng là như thế, rành rành là như kia. "Chứ còn gì nữa", như chú Bú L...í đã nói.

Nếu các đồng chí cháu ấy thương bác Hồ thật tình, thì việc cần làm ngay bây giờ là, thay vì xây dựng tượng đài bác, ca hót bác tận mây xanh, các cháu ấy tập trung vào công tác phản biện lại những tài liệu đang phổ biến rộng rãi trên mạng lưới thông tin toàn cầu. 

Chẳng hạn như băng Video "Sự thật về Hồ Chí Minh". Bác không đòi hỏi các chú ấy thanh minh thanh nga hiệu quả mọi chi tiết không tốt cho bác, Bác chỉ cần vài điều thôi. Chẳng hạn như làm cách nào để chứng minh rằng, Đơn bác xin Thực dân Tây cho học Trường Bảo Hộ để sau này được phục vụ nước Pháp là giả tạo; chứng minh việc cha bác là Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thôi việc là tự ý chứ không phải bị đuổi do tội say rượu đánh chết dân; mời ông Vũ Kỳ đang sống phây phây ở Hà Nội lên Truyền hình VTV đính chính ông không hề nuôi hộ con bác Hồ với cô Nông Thị Xuân là Nguyễn Tất Trung; thử DNA của Trung và đem so sánh với DNA của bác để chứng tỏ Nguyễn Tất Trung là con của tên cha căng chú kiết nào đó chứ không phải là con của bác Hồ là vị thánh dưới đất thánh trên trời, không hề biết tơ vương mùi đời, suốt một đời hy sinh vì nước vì dân, đồng trinh sạch sẽ, không biết lá đa nó mọc sau gáy, mọc dưới nách hay mọc ở khu vựa nối hai chân đàn bà con gái nói chung, chứ nói chi đến mấy cô gái Mường Thị Xuân, Thị Ngát mẹ thằng đức Nông mà cu Mạnh. Hoặc là kiện ông giáo sư Lê Hữu Mục nào đó đã dám viết sách chứng minh rằng Nhật Ký Trong Tù là hàng do bác chôm chĩa của một người Tàu. 

Nhưng mà muộn quá rồi Tèo ơi, Tèo à. Các chú ấy cũng thừa biết tượng bác đứng hay ngồi đó sẽ chẳng còn được mấy hơi, nhưng cũng chính vì thế mà các chú ấy tranh thủ ăn thịt bác. Bác dư biết thị trường địa ốc ở Cali, Seattle... đang nóng hổi vì các chú ấy đang chuẩn bị di tản chiến... lược, Bác Hô` không bằng Bạc Đô.

Thôi nhé, ai mà còn giấu được Mặt Thật khi Đêm Giữa Ban Ngày, lại còn thêm dưới bóng Đèn Cù nó chạy vòng vòng phơi tới, phơi lui hết cả ruột gan.

Đảng CS cũng đang chạy vòng vòng, chạy vòng vo. Theo vè Nghệ Tịnh thì: 

Chạy đi mô cho được
Trốn nơi mô mà được 

Tèo ơi!

30.05.2015

Hoa Kỳ phát hiện Trung cộng đặt vũ khí trên vùng đảo tranh chấp

Hoa Kỳ phát hiện Trung cộng đặt vũ khí trên vùng đảo tranh chấp

noreply@blogger.com (danlambao)6:08 AM


Matthew Rosenberg (The New York Times) * Translated by CTV Danlambao - Các quan chức Hoà Kỳ cho biết đã phát hiện ra một cặp xe pháo di động trên một hòn đảo nhân tạo mà Trung cộng đang xây dựng ở Biển Đông - vùng biển giàu tài nguyên với các tuyến đường biển quan trọng.

Chương trình xây dựng của Trung cộng trên các đảo san hô không người ở và các rạn san hô ở quần đảo Trường Sa gia tăng những báo động và phản đối từ các nước khác đang tranh chấp những phần chủ quyền trong khu vực.

Bộ trưởng Quốc phòng Ashton B. Carter trong tuần qua đã yêu cầu Trung cộng phải ngừng việc xây dựng, ông cho rằng luật pháp quốc tế không thừa nhận tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Trung cộng trên các vùng lãnh thổ mới và các tàu chiến cũng như máy bay quân sự của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hoạt động trong khu vực.

Theo một quan chức Hoa Kỳ được dấu tên thì các cỗ xe pháo di động đã được phát hiện bởi các vệ tinh và máy bay giám sát từ tháng trước và bây giờ có lẽ đã được dấu kín hay tháo gỡ. "Chưa rõ liệu chúng đã được gỡ bỏ" một trong những quan chức cho biết.

Một người khác nói rằng ngay cả khi các vũ khí vẫn còn trên hòn đảo này, nó không đe dọa được lực lượng hải quân Mỹ hoặc máy bay trong khu vực, mặc dù chúng có thể đạt bắn tới một số đảo gần đó  thuộc chủ quyền của các nước khác.

Với việc ông Carter có mặt tại Singapore để tham dự Đối thoại Shangri-La, một cuộc họp cấp cao an ninh châu Á hàng năm mà các quan chức Trung cộng cũng tham dự, Hoa Kỳ đã tỏ ra miễn cưỡng trong việc thảo luận công khai các thông tin tình báo mà họ đã thu thập về pháo binh của Trung cộng.

Brent Colburn, một phát ngôn viên tháp tùng chuyến đi với ông Carter chỉ nói rằng Hoa Kỳ là biết được sự hiện diện của các vũ khí mà đã được thông tin lần đầu tiên bởi tờ báo The Wall Street Journal.

Thượng nghị sĩ Cộng Hoà - ông John McCain của tiểu bang Arizona, người đứng đầu Ủy ban Quân vụ Thượng viện đã chỉ trích việc đặt vũ khí pháo binh của Trung cộng trên đảo là "một sự leo thang đang đáng lo ngại."

"Hành động của họ là vi phạm luật pháp quốc tế và hành động này  sẽ bị lên án bởi tất cả mọi người trên thế giới," ông McCain phát biểu tại Sài Gòn, nơi ông dừng lại hôm thứ sáu trên đường đến Singapore tham dự hội nghị an ninh và được trích dẫn bởi Reuters.

"Chúng ta sẽ không có một cuộc xung đột với Trung cộng" ông nói, "nhưng chúng ta có thể có những biện pháp để ngăn chận Trung cộng tiếp tục các hoạt động này."

Không có bình luận gì từ các quan chức Trung cộng về các loại vũ khí.

Một quan chức quân sự hàng đầu Trung cộng là Đô đốc Sun Jianguo, dự kiến ​​sẽ phát biểu tại hội nghị ở Singapore về chính sách quân sự của Trung cộng. Đô đốc Sun, Thứ trưởng Bộ quốc phòng của Quân đội Giải phóng Nhân dân, trong đó bao gồm các lực lượng hải quân, sẽ dẫn đầu phái đoàn mạnh nhất của các quan chức quân sự Trung cộng đến tham dự hội nghị thường niên.

Vào tuần này, lần đầu tiên Trung cộng cho phát hành một tài liệu chiến lược quân sự nói về sức mạnh của hải quân Trung cộng ở ngoài khơi, vượt qua khu vực của vùng biển ven đất liền. Quan chức phương Tây cho biết vì yếu tố thời gian phát hành, tài liệu này có vẻ như là một thách thức đối với các thành phần tham dự khác trong hội nghị.

Các mối căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung cộng trên Biển Đông đã được trông thấy vào tuần trước, khi Hoa Kỳ gửi một máy bay giám sát gần Fiery Cross Reef, nơi mà Trung cộng đã xây dựng thành một hòn đảo với một đường bay dành cho máy bay quân sự có thể sử dụng. Theo một phóng viên của CNN có mặt trên chuyến bay theo lời mời của Ngũ Giác Đài, thì Trung cộng đã yêu cầu máy bay Mỹ phải rời khỏi khu vực này.

Khi Fort Worth, một chiếc tàu chiến đấu duyên hải của Mỹ tiến hành một cuộc tuần tra kéo dài một tuần của vùng biển gần quần đảo Trường Sa, bao gồm Fiery Cross Reef, theo thông báo của Ngũ Giác Đài thì một tàu khu trục có tên lửa của Trung cộng là Yancheng đã bám sát chiến hạm này của Hoa Kỳ. Theo Ngũ Giác Đài, những chiến hạm khác của Mỹ sẽ tiến hành tuần tra tương tự, và đó sẽ là những hoạt động "bình thường mới" của hải quân Hoa Kỳ ở Biển Đông.

Trung cộng tuyên bố việc đã xây dựng các hòn đảo nhân tạo trên biển chủ yếu cho mục đích dân sự, nhưng họ đã không phủ nhận rằng nó cũng mang mục tiêu và vai trò quân sự tương lai.

Vào tháng Tư, Hua Chunying, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung cộng nói với các phóng viên rằng hòn đảo này sẽ được sử dụng để hỗ trợ quốc phòng. "Công trình xây dựng này nằm trong chủ quyền của Trung cộng và là công bằng, hợp lý, hợp pháp, không ảnh hưởng cũng không nhắm mục tiêu bất kỳ nước nào..."

Hoa Kỳ đã không đồng ý với phát biểu trên và các quan chức Mỹ đã nhấn mạnh trong những ngày gần đây rằng trật tự an ninh của Mỹ trong khu vực cần được tôn trọng bởi vì nó đã mang lại ổn định và thịnh vượng.

Với hàm ý là Trung cộng đang đe dọa, nhưng các quan chức Mỹ đã do dự để tuyên bố trực tiếp, chỉ tuyên bố chung chung rằng tất cả các nước cần phải tìm các giải pháp ngoại giao cho tranh chấp ở Biển Đông.

Tuy nhiên, các quan chức Mỹ đã không ngần ngại chỉ ra rằng Trung cộng đã tạo ra khoảng 2.000 mẫu đất mới ở Biển Đông, trong đó có ba phần tư diện tích được xây dựng trong năm nay. Hoa Kỳ cũng đã công bố hình ảnh video chụp bằng máy bay do thám cho thấy tàu Trung cộng và tàu nạo vét xây dựng đường băng và bến cảng trên trong khu vực.

Ông Carter đã tuyên bố tại diễn đàn an ninh khu vực là việc xây dựng các đảo nhân tạo bởi Trung cộng đã trở thành mối quan tâm lớn của Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á trong hơn một năm qua, và ông Carter không phải là quan chức đầu tiên của Hoa Kỳ tuyên bố về chuyện này.

Tại Hội nghị Shangri-La Đối thoại năm ngoái, Chuck Hagel, nguyên là bộ trưởng quốc phòng, nói rằng Trung cộng đã tham gia vào việc "gây bất ổn, hành động đơn phương khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông." Philippines đã phản đối Trung cộng xây dựng đảo nhân tạo từ mùa xuân năm ngoái, và vào tháng Sáu năm 2014, Tổng thống Benigno S. Aquino III đã nói công khai về sự chuyển động của tàu Trung cộng mà ông nói có thể được tham gia vào công việc tương tự tại hai địa điểm khác.

Philippines và Việt Nam tuyên bố chủ quyền của mình ở Biển Đông, và đã từ lầu hai quốc già nàyđã xây dựng hạ tầng cơ sở trên đảo hay đảo san hô ở đó. Trung cộng đã trích dẫn rằng lịch sử để bảo vệ việc xây dựng riêng của mình.

Nhưng các nhà phân tích nói rằng hai nước đã không xây dựng các hòn đảo nhân tạo, và các hạ tầng cơ sở chỉ đã được xây dựng trước năm 2002, khi Trung cộng  và chín quốc gia Đông Nam Á đã ký một thỏa thuận không ràng buộc kêu gọi tất cả phải "kiềm chế trong việc tiến hành hoạt động" và kiềm chế việc định cư nhân sự ở những vùng vốn không có cư dân trước đó.

Vùng đảo nhân tạo phát triển nhất được mở rộng bởi Trung cộng một năm trước đây là Gạc Ma, nơi mà Trung cộng đã cướp chiếm vào năm 1988 sau khi giết chết khoảng 70 binh lính và thủy thủ Việt Nam.

Các quan chức Mỹ và Đông Nam Á đang lo lắng rằng Trung cộng có thể tuyên bố chủ quyền cho một vùng đặc quyền kinh tế trong vùng biển với phạm vi 200 hải lý đo đạt từ các vùng đảo nhân tạo mới và các quan chức này cho rằng các đảo nhân tạo này không có đủ điều kiện cho những đo đạt về chủ quyền.


Nguồn:

Lược dịch:

Luật… bá đạo

Luật… bá đạo

noreply@blogger.com (Danlambao 2012)6:08 AM


Bảo Giang (Danlambao) - Hỡi thanh niên, học sinh Việt Nam. Hãy tránh xa những trò bá đạo của HCM, đừng bao giờ dại dột theo gương y để tự gây họa cho mình và cho xã hội. Hỡi người dân nô lệ, chúng ta chỉ có một con đường duy nhất để đi. Hãy cùng nhau đứng dậy, đập tan xích xiềng, xé nát tất cả những luật lệ bá đạo của chúng đi. Chúng ta và con cháu chúng ta phải lấy lại quyền làm người. Lấy lại Tự Do, Công Lý. Lấy lại quyền sống của một chủng tộc bất khuất trong dòng máu Độc Lập Việt Nam mà Tạo Hóa đã trao cho chúng ta.

*

Hôm rồi, khi vào mạng VN express, một trang thuộc biên chế của nhà nước cộng sản, tôi đọc thấy một số bản tin trong mục pháp luật như sau:

1. Ghen tức vì người "trong mộng" chuẩn bị lấy chồng, Tuấn Anh cầm dao đến nhà đoạt mạng cô gái rồi bỏ trốn. Ngày 17/5, Công an tỉnh Nam Định đã khởi tố,tạm giam Phạm Tuấn Anh, 23 tuổi, để điều tra về hành vi giết người. Tuấn Anh có cảm tình với Thi nhưng bị cô gái từ chối, Đêm 15/5, Anh đâm Thi nhiều nhát rồi bỏ trốn, Thi tử vong.

2. “Sát hại bạn gái vì bị từ chối yêu. Bị nói lời chia tay, Long vác dao đến nhà sát hại bạn gái. Công an huyện An Lão (Hải Phòng) đang điều tra vụ sát hại bạn gái ở xã An Tiến. Kẻ gây án là Nguyễn Văn Long ,18 tuổi.(5/5/15)

3. Trước đó 6/4 có bản tin hãi hơn: "Nghịch tử hại bố trong đêm. Sau chầu nhậu, Mạnh về nhà hỗn hào với bố, cầm chày đánh và khống chế, ép bố viết giấy chuyển nhượng nhà đất khiến đấng sinh thành tử vong”.

Nhớ lại, những ngày sống dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, không phải là không có kẻ thất tình, không phải là không có kẻ bất hiếu. Nhưng cung cách hành động theo kiểu côn đồ, vô giáo dục này hầu như không thấy có ở trên các trang báo tại miền Nam trước ngày 30-4-1975. Nếu có thì cũng là một con số quá nhỏ không làm cho người người kinh hãi, khủng hoảng. Hoặc không thấy là bởi vì, ở đó có một nền giáo dục đặt nền tảng trên khuôn mẫu đạo đức, luân lý của xã hội và tôn giáo. Ở đó, trẻ đến trường được học về Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín Trung, được học về lòng bao dung, tôn trọng lẫn nhau. Được học yêu thương trong nghĩa đồng bào, bảo vệ tổ quốc và giống nòi. Không một trường học, lớp nào mà không có khẩu hiệu “Tiên học lễ hậu học văn”hay “Ngày nay học tập ngày mai giúp đời”.

Nhưng sau khi cướp được chính quyền tại miền Nam vào 30-4-1975 và trước đó ở ngoài Bắc vào sau 2-9-1945, Cộng sản đã triệt tiêu nền giáo dục nhân bản, đạo đức và luân lý của xã hội, rồi thay thế vào đó là nền văn hóa vô gia đình, vô tôn giáo, rập khuôn theo kiểu “đạo đức” Hồ Chí Minh, một thứ đạo đức vô luân giết vợ đợ con. Một thứ “đạo đức” phải “căm thù và đoạn tuyệt với bố mẹ” phải thoát ly cuộc sống của gia đình. Một thứ đạo đức vô tổ quốc, bán rẻ giang sơn và nòi giống cho kẻ thù phương bắc vì quyền lợi của đảng phái. Kết quả, sau 40 năm áp đặt nền giáo dục vô đạo này cho hai thế hệ, loại “hỏi ý” côn đồ như những bản tin trên đã xuất hiện nhan nhản trên các loại báo chí, truyền thông từ tỉnh, thành đến trung ương của nhà nước Việt cộng. Sự xuất hiện này xem ra đã làm cho đời sống của người dân bất an, nhưng có lẽ lại là tín hiệu reo vui của nhà nước và băng đảng Việt cộng.?

Thứ nhất, nó báo cho nhà nước biết việc áp bức người dân học tập và làm theo gương “đạo đức” HCM đã nở hoa. Vì các loại tội phạm và tệ nạn đã tràn lan và đang tàn phá xã hội. Thứ hai: Nó ngầm thông báo đến người dân là phải tiếp tục đáp ứng những yêu cầu, hỏi ý còn bá đạo hơn thế do chính nhà nước đưa ra. Muốn từ chối, chống đối là đồng nghĩa với tai họa.

Về điểm một. Hãy nhìn con số thống kê về những tệ nạn xã hội hôm nay như: thanh thiếu nữ phá thai, học sinh nam cũng như nữ, đánh đấm, lột quần áo nhau ra, đâm chém giết nhau ngay trước cổng trường. Rồi nạn đĩ điếm, hộ lý, trộm cướp lan tràn khắp phố phường, khắp mọi cơ quan, lan đến đường quê. Hay những loại tội đại ác, đại nghịch giết cha mẹ, ông, bà, chú bác… thì thấy thành quả của cái lối giáo dục đào tạo theo gương “đạo đức” của HCM ra sao. Đến nay, mới có khoảng 5 đến 7% dân số đi theo cái lối giáo dục này, nó đã gây tác động vào xã hội, đã tạo ra các tệ nạn kinh hoảng đến như thế. Nếu chẳng may, có khoảng từ 10- 15% dân số trung thành với “đạo đức” HCM, không biết gian trá và tội ác sẽ tàn phá xã hội ta ra sao? Có nhiều phân tích cho thấy rằng, cộng sản chỉ có thể tồn tại trong một xã hội vô văn hóa, nhưng đầy gian dối do chính chúng tạo ra để “người ta phải nói dối nhau mà sống”(TQT). CS tuyệt đối không thể tồn tại trong một xã hội có đủ văn hóa nhân bản, luân lý và đạo đức. Đó là lý do tại sao, CSVN ngày đêm tuyên truyền và áp đặt cái lối giáo dục bá đạo, theo gương Hồ Chí Minh vào mọi tầng lớp dân chúng.

Về điểm hai: Nhìn chung, cả ba bản tin trên đều có một chủ đích: Kẻ thủ ác, đưa ra những đòi hỏi, những yêu cầu hay là hỏi ý mang tính cưỡng đoạt, khống chế đối tác. Kết quả, vì không nhận được câu trả lời đáp ứng, thuận tình theo ý muốn, chúng liền tặng cho đối tác mà trước đó năm bảy giây, một phút có thể còn được coi là người chúng thương yêu, quý trọng nhất, bỗng trở thành nạn nhân, lãnh trọn những nhát dao “đạo đức” Hồ Chí Minh, mất mạng. Điều này thật ra không lạ. Bởi vì, chính bản thân Hồ Chí Minh cũng đã từng đưa ra những yêu cầu bá đạo, đầy tính cưỡng đoạt, khống chế tồi tệ như thế. Rồi sau khi được thỏa mãn, HCM còn bất nhân, bất nghĩa lên án những đối tác đã bị cưỡng đoạt tài sản, hay tình cảm kia như là những tội phạm ghê gớm để tặng cho họ những con dao, nhát búa. Nạn nhân thời mất mạng sống, phần gia đình của họ thì dở sống dở chết. Trong số có hai trường hợp điển hình. Đó là trường hợp của bà Nguyễn Thị Năm và cô Nông Thị Xuân!

Thực tế, nếu đem trường hợp của Hồ Chí Minh ra so sánh với trường hợp của Nguyễn Đức Nghĩa, (tử tù vì tội giết người tình với hành vi côn đồ) hay bất cứ một tử tù nào phạm cùng một loại tội tương tự, thì hành động của Hồ Chí Minh còn man rợ, tàn độc, đáng nguyền rủa hơn gấp nhiều lần. Bởi lẽ, các tội phạm có thể thủ ác trong nhất thời, mất lý trí. Y còn sợ tội nên chạy trốn. Kế đến, đối tác của y đã trưởng thành, có tự do giao du và cũng chưa có con với tội phạm. Trong khi đó, Xuân còn ở tuổi vị thành niên, không được tự do chọn lựa, hẳn nhiên là đã bị bắt, bị cưỡng hiếp trong một thời gian dài, đã có con với Hồ, nhưng vẫn bị HCM tặng cho một cái búa và quăng xác của Xuân ra đường để giả tai nạn lưu thông. Lúc đó, nếu chẳng may có chiếc xe nào chạy qua, dù có gây ra tai nạn hay không thì cũng bị buộc vào cái tội gây tai nạn chết người và lĩnh án thay cho HCM. Phần y ngồi cười! Nhưng trời cao có mắt, đã chẳng có một chiếc xe ma nào chạy trên quãng đường đó để gánh tội cho HCM. Nếu xét trên dấu tích và căn bản gây tội ác Hồ Chí Minh, bá đạo gấp nhiều lần những tử tội trên. Ở trường hợp giết bà Nguyễn Thị Năm cũng thế, Y đã quyết tâm, viết ra một bản cáo trạng vu khống cho bà phạm nhiều tội ác để giết bà và theo đó mà giết những người khác. Rõ ràng y có một tâm địa cực độc ác thuộc loại không thể nào có thể cải tạo được. Kết quả, theo Luật của kẻ bá đạo, HCM đã không bị đưa ra pháp trường, còn được bầy đoàn đảng cộng sản ca tụng và thi đua, quyết tâm học tập theo gương “đạo đức” của “bác”. Hãi chưa!

Trở lại việc hỏi ý kiến, và sự trả lời. Tôi cho rằng, bắt nguồn từ việc tìm kiếm những điều hay, điều tốt đẹp, điều khôn ngoan, điều bổ túc mà người đi hỏi không có, hay không đủ thì ai cũng có thể làm. Làm trong sự tôn trọng đối tác, chấp nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do của đối tác. Với tập thể, chuyện hỏi ý dần biến thành một nguyên tắc dân chủ, là đi tìm lấy quyết định chung tốt nhất cho một vấn đề đã bàn thảo. Rộng rãi hơn, biến thành một cuộc trưng cầu dân ý về một quyết định trọng đại cho đất nước, hay một cuộc bầu cử trên toàn diện lãnh thổ… Tiếc rằng phương cách, hay quy lệ hỏi ý kiến này không hề được tôn trọng trong chế độ cộng sản, nơi mà đảng cộng sản đã tự viết ra mệnh lệnh “đảng cộng sản… là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” (điều 4). Điều 4 này, tự nó trở thành căn nguyên, đầu mối cho mọi loại tội ác phát sinh. Từ sự cưỡng đoạt vô đạo lý này, CS đã tự cho mình là kẻ lãnh đạo tuyệt đối trên tất cả mọi sự kiện, kể cả việc đứng trên luật pháp và dân tộc. Nó hủy bỏ công quyền và quyền bình đẳng của con người. Từ đó, những việc CS gọi là hỏi ý kiến, nó chỉ là một trò hề, mang tính chất thông báo phô trương. Trong thực tế, nó là sự cưỡng đoạt, đòi buộc mọi đối tác phải tuyệt đối thi hành những điều mà CS đã viết ra trong bản dự thảo. Điển hình:

a. Dự thảo gọi là hiến pháp 2013.

Có lẽ độc giả chưa quên câu chuyện nhà nước cộng sản “kêu gọi” nhân dân đóng góp ý kiến về việc sửa đổi hiến pháp vào năm 2013? Kết quả, một nhóm có 72 người, được mô tả là bao gồm thành phần “trí thức”, “nhân sĩ”, các cựu đảng viên, cựu viên chức cộng sản, cựu “trí thức” ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, cùng hồ hởi ký tên viết kiến nghị và giao cho một ủy ban do một cựu viên chức nhà nước, nghe nói là đồng chí cựu bộ trưởng tư pháp VC đứng đầu phái đoàn đem đến tận nhà… quốc hội để trình bản kiến nghị này. Chuyện buồn cười để đời là, ngay khi CSVN chưa hề nhắc gì đến bản góp ý kiến ấy, mới chỉ nghe Nguyễn Minh Triết nói xa xa là “bỏ điều 4 hp là tự sát”. Nghe thế, viên trưởng phái đoàn tự nhiên bị ướt quần, vội vàng xin rút tên ra khỏi cái danh sách những người ký tên gởi kiến nghị! Đến đây, ai cũng biết, nó là một trò hề được đạo diễn từ cả hai phía. Phía “kêu gọi” đóng góp ý kiến và phía “quyết tâm làm trò” gởi kiến nghị! 

Tuy nhiên, cũng trong thời gian đó, dù biết rất rõ trò hề của nhà nước CSVN trong việc họ kêu gọi công dân đóng góp ý kiến về việc sửa đổi HP. Hội Đồng GMVN trong tinh thần nhân bản, vẫn gởi đi một Lá Thư góp ý. Phải thành thực mà nói rằng, Lá Thư góp Ý của HĐGMVN như một làn Gió Mới, một chuyển bến tốt lành, không phải cho riêng ai, mà cho tất cả mọi người Việt Nam. Nội dung Lá Thư có khả năng làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của xã hội và mở ra một hướng đi chung cho mọi người cùng bước tới trong tin yêu, cùng chia xẻ với nhau mọi thao thức trong tự tình dân tộc và cùng xây dựng một niềm tin mới cho đất nước. Lá Thư góp ý này đã nói lên tâm huyết của những người Việt Nam thiết tha đến tương lai của đất nước và hạnh phúc của dân tộc. Những điểm chính được ghi nhận như:

Về hình thức, Lá Thư đề gửi cho "ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến Pháp năm 1992" là một ủy ban đặc biệt nghiên cứu về tiến trình sửa đổi HP 2013, nhưng nó không gò bó, không mang một hình thức trình diễn, không có hàng chữ dài vô cảm mang nhãn hiệu “CHXHCNVN” đi kèm với khẩu hiệu rêu rao của nó ở trên phần đầu trang. Trái lại, phong cách Lá Thư ngắn gọn, trực diện, nhân văn, trí tuệ. Viết những điều cần viết. Nói những diều cần nói. Tuy là ngắn, nhưng chứa đựng hầu như tất cả tâm nguyện, khát vọng, không phải chỉ của người viết, hay của hơn tám triệu thành viên trong tôn giáo mà họ là đại diện, nhưng có thể là của tất cả mọi người, không trừ ai. Bởi vì, suy cho cùng, xét cho tận, tất cả mọi người đều muốn nói lên một tiếng nói chung, quang minh chính trực là: Chẳng còn một ai thiết tha quan tâm đến cái hàng chữ quảng cáo vô nghĩa CHXHCHVN nữa. Nên quẳng nó đi thì hơn. Kết quả, khi không có hàng chữ đó, mọi người thấy thoải mái, riêng Lá Thư thì thêm nét đẹp trong sáng, đáng trân trọng hơn.

Về nội dung. Lá Thư mang những lời giảng giải ý nghĩa đích thực của những ngôn từ, lý lẽ trong cuộc sống nhân bản, mà không ai có thể phủ nhận, hay có thể tước đoạt được. Trái lại, những quyền thuộc về con người, làm nên phẩm giá con người như sự tự do, chính trị, đoàn thể, tôn giáo, ngôn luận, tư tưởng là bất khả xâm phạm. Theo đó, không ai có đặc quyền chính trị, cũng chẳng ai có quyền từ khước, tước đoạt quyền làm người của con người mà xã hội tiến bộ đã công nhận. Kế đến, phải trả quân đội, các lực lượng võ trang, công an, an ninh, tình báo về với chức năng của họ. Hai tổ chức này không thể thuộc một lực lượng chính trị nào, nhưng là của toàn dân với nhiệm vụ giữ an ninh, bảo vệ cương vực và lãnh thổ. Dĩ nhiên những điều tâm huyết, dù có khả năng làm thay đổi cả bộ mặt và cơ chế của đất nước như thế, cộng sản sẽ không bao giờ biết lắng nghe. Họ không nghe vì đã có điều số 4 và “dạo đức” HCM dẫn đường!

b. Dự thảo 4, luật tín ngưỡng, tôn giáo.

Mới đây, HDGMVN, và các tôn giáo bạn lại nhận được một bản hỏi ý kiến khác từ nhà nước Việt cộng gởi đến. Vừa đọc qua cái tên "Dự thảo 4- Luật Tín Ngưỡng, Tôn Giáo" ký ngày 10-4 là rớt mồ hôi hột. Trước tiên, không biết gởi đi là ngày nào, nhưng phải gởi trả lời trước ngày 05-5-2015. Kế đến, Tôn Giáo nào thì cũng đã có luật lệ riêng cho người theo tôn giáo ấy giữ gìn. Nghĩa là, luật lệ về tôn giáo thì do các chức sắc có thẩm quyền trong tôn giáo đưa ra, quy định cho phù hợp với đời sống tín ngưỡng và sinh hoạt của tôn giáo trong xã hội cho các tín đồ, bổn đạo của họ đi theo. Nay Việt cộng, những Kẻ Vô Đạo, vô thần, chuyên nghề đập phá đền chùa, tôn miếu, cướp của, cướp tài sản của nhà thờ lại đứng ra làm luật cho người Có Đạo thì họ sẽ làm ra những thứ luật lệ gì? Có phải chăng là để cấm cách, để quy hoạch và đáp ứng cho nhu cầu vô thần, vô đạo của CS?

Đặt ra câu hỏi vậy thôi, chứ thực ra chẳng cần tìm hiểu làm gì. Bởi lẽ, chỉ cần đọc đến cái thời hạn gởi trả lời (5/5/15) và kèm theo câu rất ấu trĩ, nếu như không muốn nói là không có lễ giáo, văn hóa: “hết thời hạn trên nếu không nhận được văn bản góp ý của quý vị, xin được hiểu là đã đồng ý với dự thảo” là biết cái luật lệ ấy “giá trị” như thế nào. Theo đó, chả nên để mất thờ giờ, cứ vò và ném cả thư ngỏ cũng như cái bản dự thảo kia vào đống… rác, mọi người đều đoán biết trong cái bản dự thảo ấy đã viết ra những gì, và với những mục đích gì?” Chắc chắn nó không đi ra ngoài những điểm sau:

1. Cấm cản, kiểm soát. CSVN sẽ đặt ra nhiều cái bẫy, nhiều hình thức để cấm cản và kiểm soát những sinh hoạt của các tôn giáo.

2. Áp đặt hiệu ứng vô thần vào tôn giáo. Để phá hoại đời sống linh thánh của các tôn giáo, Việt cộng sẽ tìm cách kiểm soát và áp đặt giáo án thuộc hệ vô tôn giáo, vô thần thánh vào trong việc đào tạo các chức sắc của tôn giáo.

Cài cắm, gài người vào trong các tôn giáo với mưu đồ phá hoại niềm tin và đời sống linh thiêng, hợp nhất của các tôn giáo. Để từ đó CSVN sẽ cơ cấu những kẻ vì đảng vì lợi danh để phá hoại đời sống của người dân như Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang. Làm dâm ô, bại hoại cửa Phật, hay nhà thờ như Thích Nhuận Tiến (Đồng Nai), Thích Thông Anh, (Khánh Hòa) như Phan Khắc Từ (họ đạo Vườn Xoài). Rồi từ những kẻ bất giáo này, CS sẽ dồn ép tôn giáo, làm ô uế cửa phật, nơi tôn nghiêm, phỉ báng tôn giáo, phỉ báng thần thánh bằng cách đưa cái đầu lâu của HCM vào chùa, đền miếu, ngồi ngang hàng với Thần Phật.

Và sau cùng, cướp đoạt tài sản của nhà thờ, của các chùa chiền theo diện quy hoạch để lấy tiền chia nhau hành lạc.

Ngoài những mục đích này ra, có thể còn có những chủ trương mờ ám khác nữa. Nhưng tuyệt đối không có một điểm đứng đắn nào, tử tế nào, khả dĩ được gọi là tốt đẹp hay bảo đảm quyền tự do tôn giáo của người dân sẽ được viết ra trong cái bản dự thảo này. Đã tệ hại như thế, “dự thảo 4, luật về tín ngưỡng, tôn giáo” là một thứ luật hoàn toàn khác với các luật lệ khi được áp dụng. Khác vì nó chỉ chế tài phía các tôn giáo, là đối tác buộc phải thi hành luật. Nó không bao giờ chế tài phía làm ra luật.

Ai cũng biết, luật lệ đều phải áp dụng cho mọi người. Thí dụ, luật hình sự, dân sự. Luật về gian dâm, trộm cướp, phản quốc thì từ Hồ Chí Minh, các viên chức, hoặc thường phạm đều có thể vi phạm và đều bị chế tài. Riêng luật về tôn giáo thì chỉ có những “tội phạm” là người trực thuộc trong các tôn giao mà thôi. Riêng bộ phận của phía người làm luật (phía nhà nước) thì sẽ không bao giờ có thể bị kết tội vi phạm vào luật tôn giáo. Bởi lẽ, toàn là những kẻ vô đạo thì làm sao có thể vi phạm luật tín ngưỡng và tôn giáo được? Ấy là chưa kể đến trường hợp, chỉ một giới chức nhỏ nhoi tại địa phương như phường khóm thôn, cũng có quyền giải thích về những điều khoản ghi trong bản dự thảo này tùy theo sinh hoạt trong khu xóm của mình! Như thế, nó khác gì cái thòng lọng buộc vào cổ các tôn giáo, cộng sản muốn xiết chặt lại lúc nào tùy thích. Nếu địa phương muốn được dễ thở thì lại phải Xin và dĩ nhiên là phải chi tiền để được cho!

Tóm lại, không một người nào mà không nhăn mặt, khó chịu, bực mình nếu như không muốn nói là muốn nổi giận, phẫn uất vì những hành động côn đồ của những tên sát thủ trong những bản tin nhỏ tôi trích dẫn ở trên. Tuy nhiên, theo tôi, những bản tin này chỉ như một cái gai quá nhỏ bé, lỡ đâm trúng da thịt chúng ta mà thôi. Nó thực sự không đáng để đem ra so sánh với những đòi hỏi cưỡng đoạt côn đồ của HCM với Nông thị Xuân, hoặc những luật lệ bá đạo của chúng với dân ta. Sự cưỡng đoạt khống chế này không phải chỉ có trong thời cải cách ruộng đất, thời chiến, nhưng còn là đòi hỏi cưỡng đoạt trong mọi giây, mọi phút trong đời của chúng ta hôm nay nữa. Đó là những đòi hỏi lộng quyền, bá đạo, côn đồ gấp trăm lần những đòi hỏi mang tính cá nhân trong những bản tin như cái gai nhỏ ở trên. Nó là một con dao cực bén đã thọc vào cổ, vào trái tim, vào buồng phổi của tất cả mọi người. Hoặc giả, nó là cái búa tạ đã đập vào đầu vào cổ toàn dân tộc Việt Nam ta. Đó là cái điều số 4 ghi trong bản văn gọi là HP tự biên tự diễn của nhà nước Việt cộng. Từ khởi điểm cưỡng đoạt bá đạo này, người dân Việt Nam đã mất tất cả. Mất từ quyền sống đến công quyền.

Thật vậy. Nếu không có cái điều cưỡng đoạt này, không có gương “đạo đức” HCM, nền luân lý đạo hạnh và văn hóa của dân tộc ta không thể bị phá sản, sẽ không có nhiều những loại tội đại ác côn đồ như trên xảy ra. Chưa chắc gì những thanh niên trên xa đà vào tội ác để bị kết án. Sẽ không có nhiều những tệ nạn trộm cướp, đĩ điếm, ma túy, đâm chém nhau như hôm nay. Nếu không có “đạo đức” HCM, tài sản của nhà thờ, của chùa chiên không bị vi phạm, tôn giáo không thể bị phỉ báng vì Kẻ Vô đạo làm luật cho Người Có Đạo. Nếu không có điều cưỡng đoạt số 4, tập đoàn Cs không thể bám vào cái đầu lâu của HCM để từ đó thêu dệt, vẽ vời ra, và thay nhau đánh bóng tội ác để tiếp tục trấn lột máu xương của nhân dân và phục vụ cho mưu đồ bành trướng Bắc Kinh. Nếu không có cái điều cưỡng đoạt số 4 này, đất đai của người dân không thể bị quy hoạch tùy tiện, đất nước không có những dân oan. Không có cái điều 4 này, những người hy sinh bảo vệ quê hương sẽ có một vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc. Không phải hẩm hiu, bia tàn, nhang lạnh và nằm dưới chân những nghĩa trang, những ngôi mộ hoành tráng mang tên “Liệt Sĩ Trung Quốc” ngay trên đất nước mình. Không có điều số 4 này, Việt Nam đã không bị mất biển đảo, không thể bị bất cứ kẻ nào vẽ lại đường biên giới. Dân ta sẽ không gặp đại họa, không bị bất hạnh như hôm nay.

Như thế, điều số 4 này có phải là con dao đã thọc sâu vào trong tim vào buồng phổi, vào lá gan của từng người, hay như cái búa đã đập vào đầu, vào cổ toàn thể dân ta hay không?
Điều số 4 này có phải là một thứ luật lệ của kẻ bá đạo, đang từng giờ, từng phút giết chết cuộc sống của cả dân tộc ta, hay nó phục vụ cho Việt Nam ta đây?

Hơn lúc nào hết, chúng ta nên nhớ rằng, Nhân quyền, công quyền của ta đã mất, ta đã như một kẻ nô lệ. Việc ta còn sống hay chết. Việc ta có bị tập đoàn cộng sản phanh thây, giam cầm, hay tôn giáo, tín ngưỡng của ta có có bị phỉ báng hay không, không phải là vấn đề để CS quan tâm. Với CS, dân ta đã bị coi là nô lệ, thì tên nô lệ ấy mang tên Việt Nam hay Trung quốc cũng chẳng có gì khác biệt. Có chăng là khi đất đai biển đảo và các công trình kinh tế của ta sau khi đã lọt vào tay Trung cộng thì quan cán CS được hưởng hàm thái thú, còn ta thêm một cái tròng mới vào cổ mà thôi.

Hỡi thanh niên, học sinh Việt Nam. Hãy tránh xa những trò bá đạo của HCM, đừng bao giờ dại dột theo gương y để tự gây họa cho mình và cho xã hội.

Hỡi người dân nô lệ, chúng ta chỉ có một con đường duy nhất để đi. Hãy cùng nhau đứng dậy, đập tan xích xiềng, xé nát tất cả những luật lệ bá đạo của chúng đi. Chúng ta và con cháu chúng ta phải lấy lại quyền làm người. Lấy lại Tự Do, Công Lý. Lấy lại quyền sống của một chủng tộc bất khuất trong dòng máu Độc Lập Việt Nam mà Tạo Hóa đã trao cho chúng ta.

29/05/2015

Quê hương tôi cứ mãi điêu linh - Kỳ 1

Quê hương tôi cứ mãi điêu linh - Kỳ 1

noreply@blogger.com (Danlambao 2012)9:26 PM



Cải cách ruộng đất tại miền Bắc sau sáu mươi hai năm trước (1953-2015).

Trong suốt thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam sống dưới chế độ Cộng sản của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động với tên nước Cộng hòa Dân chủ đã khởi động một phong trào cải cách ruộng đất mạnh tay quá trớn. Theo quy định cải cách ruộng đất nông nghiệp của đảng ban hành, sẽ có sự phân phối sử dụng đất nông nghiệp hoặc quyền chuyển đổi. Cải cách ruộng đất - Thuật ngữ này dùng để chỉ số của các cá nhân, tập thể sử dụng nhiều đất hoặc đất địa chủ lớn, nay chuyển giao quyền sử dụng đối với đất canh tác nông nghiệp. Có thể hoặc không được bồi thường trong quá trình chuyển quyền sở hữu, nó cũng có thể đủ điều kiện để các chủ sở hữu đất đồng ý hay không đồng ý thực hiện.

Cải cách ruộng đất cũng một cách tiếp cận ôn hòa. Nhưng các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam sử dụng các phương tiện tàn bạo cực đoan, khủng bố, giết người để thực hiện cải cách ruộng đất. Nói đúng hơn Việt Nam thực hiện cải cách ruộng đất vào những năm 1950, chính quyền địa phương tịch thu đất của địa chủ, phú nông, phân phối đất đai cho nông dân nghèo. Trên lý thuyết "Cách mạng ruộng đất tạo ra những điều kiện giải phóng dân tộc". Thực hiện theo chủ nghĩa cộng sản có nghĩa là mọi người sẽ sử dụng phương tiện thiết lập lại xã hội công cộng, tuy nhiên xã hội đó không bao giờ đến với xã hội chủ nghĩa.

Mã số 7088665, ngày 17 tháng 7 năm 1934. Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh chọn quốc kỳ Việt Nam Dân Chù Cộng Hòa (1945-1976). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.

Tháng 11 năm 1953 có cuộc họp kỳ thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ra quyết định thực hiện phong trào cải cách ruộng đất. Theo các nhà chức trách Việt Nam, tiết lộ thông tin 1953-1957, ở vùng đồng bằng phía Bắc và gần khu vực bán sơn có 810.000 ha đất được giao cho hai triệu nông dân, chiếm 72,8% tỷ lệ đất canh tác ở miền Bắc Việt Nam. Năm 1945, chỉ có 4% hộ gia đình sở hữu đất đai, chiếm 24,5% diện tích đất canh tác. Hồ Chí Minh phát biểu: "Chúng tôi có những quan điểm khác nhau về cải cách ruộng đất, nhưng căn cứ theo nghị quyết tạo lập sự công bình, hợp lý, không chỉ để làm cho lao động nông nghiệp, nông dân nghèo, nông dân trung bình thấp có đất canh tác, cũng chăm sóc địa chủ và phú nông". 

Tuy nhiên, đứng ở một góc độ quan sát, phong trào cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam có một số tác động tiêu cực đáng kể. Hành động cường độ cực mạnh, phương thức thực hiện tàn bạo bởi vậy có hàng ngàn người bị tố cáo bị hành quyết, bỏ tù thành phần nông dân, "Bác" mới thực hiện đã sai công thức đấu tranh với giới địa chủ. Đến tháng 10 năm 1956 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (CPPCC tương tự của Trung Quốc) công bố rằng người dân đã mất niềm tin cải cách ruộng đất. Bản thân Ủy ban Trung ương (CPC) cũng thi hành công tác sai, và đổ lỗi lên đầu nông dân, khó tả tình trạng chuyên chế đảng "Bác", đảng lên án nông dân quá bi thảm, đảng giai cấp nông dân, giết người dân không nương tay, cực kỳ tàn bạo và man rợ. 

Trong thực tế, các lĩnh vực cải cách ruộng đất vào năm 1956, có năm giai đoạn cải cách ruộng đất đã được bắt đầu từ năm 1950, Việt Cộng chiếm đóng vùng nông thôn, được gọi chung là vùng giải phóng Bắc Việt. Tuy nhiên, đến năm 1956 nổ ra tất cả mọi thứ sai lầm cải cách ruộng đất mãnh liệt nhất, thời kỳ này tàn bạo nhất, đảng lên án thực hiện hành quyết nông dân, phần lớn mọi người đã chết trong tù. Phía Bắc lây lan "khủng bố đỏ", bầu không khí ngột ngạt, tâm lý hoảng loạn, sợ hãi làm người ta khó quên.

Hồ Chí Minh hủy diệt dân tộc Việt Nam "trảm thảo trừ căn".

Nhà chức trách Hà Nội xuất bản "Việt Nam Kinh tế Lịch sử", tiết lộ rằng đã có 172.008 người giai cấp nông dân kẻ thù của chủ nhân dân, nông dân giàu có thuộc thành phần giai cấp của cải cách ruộng đất, những người này phải "trảm thảo trừ căn", đáng ra, đảng không nên thực hiện mở đầu cái chết tử hình hay tù đày nhân dân. Quá trình "hủy diệt" nhân dân trong câu chữ phổ biến "cải cách ruộng đất", dù từ ngữ nghĩa đen cũng mô tả các hành động cải cách ruộng đất tàn bạo. 

Ngày 27 tháng 7 năm 1972, "New York Times" Hoa Kỳ loan tải cuộc họp báo của Tổng thống Richard Nixon cho biết số liệu, người chết trong cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam, có đến năm triệu người (5 triệu) đã bị giết chết và nửa triệu người chết trong các trại lao động. Tuy nhiên phóng viên Pháp - Victoria (Michel Tauriac) thực hiện phóng sự cải cách ruộng đất cho biết nửa triệu nạn nhân. Ông cho rằng con số này cũng hợp lý, nếu nạn nhân bao gồm những người bị tử hình, tù, thủ tiêu, có những người chết vì tự tử. Chúng ta chỉ có thể dự đoán, không có thông tin cụ thể chính thức để nghiên cứu khoa học và con số chính xác để tham khảo. Cũng trong năm 1956, Hồ Chí Minh công khai thừa nhận những sai lầm trong quá trình tiến hành thực hiện cải cách ruộng đất, cam kết sẽ sửa chữa và xử lý một số trường hợp. Trong thông báo chính thức có 172.008 nông dân, địa chủ giàu có trên 123.266 người, đang phân loại thành phần sai phạm. Tính theo tỷ lệ 71,66%. Cho tất cả mọi nơi tại miền Bắc, đảng hành động quá nhiều sai phạm mà không khắc phục cải cách, đưa đến bất công, người dân đau khổ, trầm luân quá nhiều. 

Hồ Chí Minh quá dã man.

Ngày 25 tháng 2 1956 tạp chí (Nội San Cải Cách Ruộng Đất) loan tải vấn đề "cải cách ruộng đất", Hồ Chí Minh phát biểu: "Thực hiện hành quyết không phải hành vi man rợ", "Tuyệt đối thực hiện không thể bất thành, nếu việc hành quyết khả thi theo Đảng và chính sách xem ra không mâu thuẫn với phong cách trái ngược mang tính cách mạng".

Trong lúc thực hiện cải cách ruộng đất, xem địa chủ như kẻ thù của đảng. Trong quá khứ, "Bác" nói rằng địa chủ một thành phần của nhân dân. Nhưng sau đó quy tội địa chủ chống cách mạng, từ đó những địa chủ không bao giờ ngủ yên, vẫn nơm nớp sợ hãi, tương lai "Bác" hỏi ai là kẻ thù của nhân dân, nhân dân thấy "Bác" nói sao cũng được bởi "Bác" là đạn với súng, nông dân trở thành nạn nhân của đảng, gia đình của họ cũng bị ảnh hưởng theo chính sách của đảng, nhất định họ phải bị xã hội cô lập và cách ly. Không chỉ những người nông dân bị kết án khổ sai như những địa chủ khác. Ngay cả Bộ Chính trị ĐCSVN năm 1956 Báo cáo cũng đề cập đến các kế hoạch trong lĩnh vực thanh lọc cải cách ruộng đất, và khủng bố "tàn bạo" từ để mô tả một thời điểm cao trào cách mạng diễn ra trong hành động tại miền đất Việt Bắc. 

Việt Minh dã man, lấy cày bừa qua đầu người thay cho án tử hình, một hành vi man rợ nhất thế kỷ XX (1954-1956) Như một trừng phạt răn đe vô nhân đạo không còn công lý, cho thấy chế độ bạo lực sẽ nhân danh sự thoải mái, người đầu tiên của công cụ "cải cách ruộng đất" là nông dân Việt Bắc. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.

Cuộc cách mạng cải cách ruộng đất là những gì đã xảy ra cách đây 62 năm, nhưng đối với những người trực tiếp chứng kiến ​​nạn nhân, vết thương của họ vẫn còn chịu ảnh hưởng của lửa đấu tố. Thật không may, cho đến bây giờ phải mô tả Cộng sản quá cuồng tín. Phong trào cải cách ruộng đất ở Việt Nam vẫn còn lệnh cấm không được đụng đến "nhạy cảm", tuy có thảo luận nhưng bị hướng dẫn một chiều, nhân chứng đã trở nên ngày càng thưa dần. Đây là một điều đáng suy nghĩ cho vấn đề hồ sơ lịch sử. 

Vào những năm 1949, có hai điều quan trọng xảy ra. Việc đầu tiên là vào năm 1949 sau khi Hiệp định Ellis (Hiệp định Elysée), sự xuất hiện Bảo Đại thành lập chính phủ. Sau khi chế độ Bảo Đại được thành lập để đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân, nhiều người từ khu vực chiến tranh trở về thành phố để sống. Việt Minh bị mất nguồn nhân lực, nhất là giới trẻ, cần họ tham gia vào các lực lượng chiến đấu. Vì vậy. Kết quả năm 1949 là một bước ngoặc lớn trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương, kể từ cuộc chiến 1946-1949, người dân từ khu vực này đến khu vực khác chuyển đổi cuộc sống hoặc rời khỏi nông thôn về thành phố rất nhiều đất đai bỏ trống không còn bao nhiêu người dân ở lại với Việt Minh. Vì vậy, Việt Minh cần thiết giải quyết hai vấn đề: Thứ nhất thiếu nhân lực sản xuất lương thực, thứ hai thiếu binh sĩ chiến đấu và nguồn cung cấp thực phẩm, do đó Việt Minh hối hả mở rộng cuộc cách mạng cải cách ruộng đất.

Phong trào cải cách ruộng đất đã có nghị quyết từ năm 1949 đến giữa năm 1956 kết thúc, trong đó có thể được chia thành năm giai đoạn. Năm giai đoạn của chế độ Việt Minh được ban hành bởi những bộ phận khác nhau của đất cải cách: 

- Giai đoạn một, kể từ năm 1949, chính phủ Việt Minh khuyến khích nông dân gia tăng sản lượng nông nghiệp và thành lập Ủy ban giảm thuế. Việt Minh yêu cầu địa chủ sở hữu xới đất lao động nông nghiệp (xới đất tức là thuê) thống nhất giảm thuế. Thậm chí một số nơi giảm thuế 35%. Đến năm 1949, Việt Minh ban hành sắc lệnh thuế, đưa ra một số nguyên tắc quan trọng, chẳng hạn Việt Minh thu đất của người Pháp và địa chủ người Việt phân phối cho nông dân, người Việt Nam gọi là "đảng bá chủ đất đai". Nguy hiểm hơn cho tất cả nông dân đã từng hợp tác với người Pháp, hoặc không hợp tác với Việt Minh.

Hành quyết nông dân đã từng hợp tác với người Pháp, hoặc không hợp tác với Việt Minh. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.

- Giai đoạn hai, ngày 12 tháng 2 năm 1950, Việt Minh đã ban hành một sắc lệnh tổng động viên, kêu gọi người dân vì đất nước quê hương cho con người nhập ngũ, cống hiến vật chất (tức là công cụ nuôi miệng ăn) và tài chính (tiền). Năm 1950, Hồ Chí Minh ban hành hai sắc lệnh. Công bố cam kết hoàn trả đất đai, trước đó năm 1945 đã có hợp đồng hoàn trả tất cả các khoản nợ 100% giữa nông dân lao động và người lao động nông nghiệp, đảng cho rằng không hợp lệ. Đó là sử dụng lao động vì lợi ích cho Việt minh tại thời điểm này. Trong sắc lệnh thứ hai, nó cũng là năm thứ năm liên tiếp sửa chữa tuyển dụng đất đai (đất trống), do Nhà nước phân phát đất cho nông dân. Tuy nhiên, những điều quan trọng đã xảy ra vào năm 1950, đó là sau khi Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh kêu gọi Mao Trạch Đông cho ông đạt hai điều: Một là mở rộng đổi tên Đảng Lao Động thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thứ hai là thúc đẩy thực hiện những phong trào cải cách ruộng đất theo đường hướng Trung Cộng. Để đạt được quyền phân phát đất đai, chuẩn bị cách mạng cải cách, theo đường hướng Cộng sản Mao Trạch Đông bắt đầu luyện tập và củng cố tập đoàn Việt Minh. Cũng thời gian này Hồ Chí Minh đã đến thăm Liên Xô, giai đoạn thứ ba bắt đầu. Ở giai đoạn này, Hồ Chí Minh đã gửi một phái đoàn đến Bắc Kinh để học tiếng Trung Hoa và đào tạo lý thuyết Mác-Lênin. Việt Minh thực sự học tập cải cách ruộng đất, cách vận hành đường hướng Cộng sản. Sau khi học tập họ trở về miền Bắc được gửi đi công tác với nhóm Cố vấn Trung Cộng, đặc biệt có nhóm đi miền Trung. Ngoài ra có nhóm gửi vào phía miền Nam, nhưng chỉ ở một số vùng núi xa xôi, vùng đồng bằng không có dấu chân cải cách ruộng đất của Việt Minh. 

- Giai đoạn ba, ngày 20 tháng 4 năm 1953 vấn đề tha thứ nông dân và sự khởi đầu. Chỉ dụ này công bố việc tịch thu đồn điền của người Pháp, Việt Minh đã có những tội ác, bắt nạt tất cả nông dân có tài sản và đất đai. Kể từ đó, họ cũng đã thành lập một tổ chức gọi là Ủy ban Nông nghiệp ở tất cả các cấp từ thành phố đến nông thôn. Ủy ban Nông nghiệp do Thủ tướng Chính phủ phụ trách được xem như một trung tâm của cộng đồng (quy mô tương tự thành phố, cấp huyện, thị trấn, làng xã của Trung Quốc). Và kể từ thời điểm đó khởi đầu chỉ trích cảnh cáo nông dân. Việt Minh đang bận rộn với công việc đàm phán Genève, do đó tiến hành lên án chưa quyết liệt, như vậy là không khơi dậy dư luận quốc tế chỉ trích.

Trung Quốc là một cơn ác mộng của Việt Nam? Các phái đòan đến Hội nghị Genève (Genève, Switzerland, 1954). Nguồn/Photo: Time Inc./Frank Scherschel.

- Giai đoạn bốn, năm 1954, Ủy ban Tư pháp quy định nếu nhân dân chống lại phong trào cải cách ruộng đất được xem phản động. Ở giai đoạn này kể từ khi ký kết Hiệp định Genève, mặc dù Ủy ban tư pháp gọi là "nhân dân" nhưng thực chất nhân dân không có quyền, cảm giác của nhân dân cực kỳ nghiêm trọng về an ninh, giống như những lời chỉ trích có hành vi khủng bố của Việt Minh. 

- Giai đoạn năm, ngày 14 tháng 6 năm 1955, Hồ Chí Minh vận dụng phong trào cải cách ruộng tạo ra sắc lệnh ân xá một phần nào dựa nội dung hướng dẫn Trung Cộng để thực hiện trên cơ sở năm 1953, đồng thời Việt Minh cũng đã thành lập một Ủy ban cải cách ruộng đất do Trường Chinh đứng đầu và thành lập những cơ sở đoàn đội, sau đó thành lập các Ủy ban tư pháp nhân dân. Giai đoạn này Việt Minh bắc nông dân đấu tố lẫn nhau. Ủy ban tư pháp nhân dân trở thành công cụ của cán bộ nông thôn. Tranh luận nguồn gốc nông thôn trong quá khứ của mỗi thành phần để làm công cụ loại bỏ tất cả xã hội cũ. 

Tất cả những bi kịch trong giai đoạn năm. Nhưng tại sao phong trào cải cách ruộng đất dừng lại năm 1956? Có phải họ đạt được mục tiêu của mình và chịu buông bỏ nó? Hoặc vì quá nhiều khiếu nại, phê bình, quá nhiều bất công xảy ra và ngăn chặn nó? Những câu hỏi rất thú vị. Đa số người dân Việt Nam có một góc nhìn bình thường, sau đó nhìn thấy rõ ràng rằng việc thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của Đảng Cộng sản Việt Nam quá nghiệt ngã. Nhưng vì một số các quan điểm nội tại thấy lợi ích của các nhà lãnh đạo cấp cao trong Đảng Cộng sản, do đó Việt Minh không nhìn thấy bất kỳ sai trái nào. Chỉ có những chuyên môn nông nghiệp, thấy cải cách ruộng đất này sẽ không đẩy sự phát triển của nông nghiệp, cũng không cải thiện cuộc sống của người nông dân, mà còn nghiêm trọng làm suy yếu nền tảng của nông nghiệp truyền thống ở nông thôn miền Bắc, tình hình của người dân trở nên đói nghèo trầm trọng. 

Hồ Chí Minh thăm bà con nông thôn các dân tộc tỉnh Tuyên Quang và khuyến khích trong phong trào cải cách ruộng đất đấu tố nông dân 1945. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.

Đứng trên quan điểm của Đảng Cộng sản, họ tuyên bố chiến thắng cải cách ruộng đất. Năm 1956, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản cũng đến lúc cần thiết ngăn chặn việc thực hiện cải cách ruộng đất, gồm hai phần: cải cách ruộng đất cách mạng là một vấn đề nội bộ của Bắc Việt Nam, khi ấy cải cách ruộng đất đã đạt mục đích chính trị của mình. Là gì? Mục đích chính trị của nó là sự phá hủy cơ sở lãnh đạo hạ tầng khu vực nông thôn, lãnh đạo thay vì được thành lập bởi một nhóm cộng sản. Thứ hai là họ ngăn chặn "những yếu tố thù địch tàng ẩn trong nhân dân", Việt Minh đã phá vỡ đổ nát khu vực nông thôn và văn hóa truyền thống, Việt Minh thay vào đó tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, Đảng Cộng sản hành động khủng bố nông dân trong giai đoạn năm, để chế ngự nông dân thực hiện, bằng phương thức buộc bao tử nhân dân, thiếu ăn và nghèo đói luôn luôn sống trong nỗi sợ hãi vô tận, để nông dân tiếp nhận cán bộ cộng sản, cộng đồng nông thôn miền Bắc là nền tảng cho việc củng cố sự ổn định đảng. Tuy nhiên, nếu hành vi của Việt Minh cực đoan quá căng thẳng, lòng nhân dân sẽ đỏ lửa, bởi nông dân bị đẩy đến đường cùng, vì vậy nông dân phải chống lại Việt Minh, như đã xảy ra cuộc nổi dậy của nông dân chống đảng vào năm 1956 tại tỉnh Nghệ An và huyện Quỳnh Lưu Hà Tỉnh, sau đó Hồ Chí Minh huy động quân đội đàn áp thô bạo. 

Việt Cộng đã đạt được mục tiêu của mình: Tiêu diệt nhân dân "theo tội phản động" và phá hủy hoàn toàn môi trường xã hội truyền thống nông thôn Việt Nam. Việt Minh phát động nông nghiệp tại nông thôn vào hợp tác xã, nông dân trở thành công cụ sản xuất hoàn chỉnh của đảng, bắc buộc nông dân tự quản lý đất và sản xuất ngũ cốc, nông dân phải thực thi thống nhất dưới sự chỉ huy của chính sách nông nghiệp. Sau khi chính sách vào hoạt động được xem đã củng cố chế độ, Việt Cộng chấm dứt phong trào cải cách ruộng đất, mũi nhọn của sự chỉ đạo ổn định chính trị do cố vấn Trung Cộng phụ trách. 

Đầu tiên vấn đề nội bộ đảng miền Bắc Việt Nam, thứ hai là nước ngoài (Trung Cộng) tham gia vào cải cách ruộng đất. Phân tích yếu tố thứ hai, chúng ta cần đặt lại tình hình Việt Nam bộ phận chính trị Cộng sản quan sát bởi bối cảnh quốc tế. Vào thời điểm đó cái chết của Stalin lãnh đạo độc tài của Liên Xô năm 1953. Các cuộc đấu tranh quyền lực dữ dội trong đảng, Khrushchev giành chiến thắng quyền lực. Đại hội Đảng lần thứ 20 tại Moscow, Khrushchev đọc báo cáo khiếu nại Stalin tàn bạo và thờ phượng chủ nghĩa cá nhân. Báo cáo đưa ra một cú sốc cho toàn thế giới. Sau khi Khrushchev thực hiện chính sách tự do hơn để thúc đẩy chung sống hòa bình giữa các quốc gia có hệ thống chính trị cộng sản khác nhau, và hứa sẽ mang lại cho Liên Xô, con đường dân chủ. Khrushchev củng cố quyền lực của mình sau khi cử đại diện đi giải thích các nước trong khối cộng sản. Tháng 4 năm 1956, Mikoyan có chuyến viếng thăm Hà Nội, giải thích chính sách Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần hai mươi cho đồng chí Việt Nam hiểu biết và nắm bắt tình hình chung. Vì vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô và Việt Nam không thể đi theo con đường ngược lại, do đó, giá trị của tháng 7 năm 1956, được tóm tắt qua giai đoạn năm của hội nghị cải cách ruộng đất, áp lực trong nước và quốc tế lên Hồ Chí Minh để chấm dứt phong trào cải cách ruộng đất, và bắt đầu thực hiện những thay đổi chính sách. Hồ đổ lỗi điều hành sai trái bởi những người gần gũi với mình. Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt (Huang Yue), Lê Văn Lương (Li Wenliang), sau này họ từ chức, nhưng một thời gian những người này trở lại lãnh đạo chính phủ, tiếp tục phục vụ như là một bài học. Những thiệt hại cá nhân trong trường hợp cải cách ruộng đất, nhưng đây chỉ là những hành vi mang tính biểu tượng duy nhất.

Theo Cố vấn tướng Trần Canh, nhớ lại phong trào cải cách ruộng đất chỉ được chính thức bắt đầu khởi động vào năm 1950 và kết thúc giữa năm 1956. Trong bão tố ấy, cực kỳ khắc nghiệt, đảng Cộng sản đã tạo ra cách mạng khủng bố quá tàn bạo, tàn ác đối với nhân dân miền Bắc, vô số nông dân địa chủ bị giết chết, vì vậy các nạn nhân và gia đình của họ nỗi sợ hãi vẫn dai dẳng, không bao giờ quên, cơn bão này là nguồn gốc đau khổ. Theo các báo cáo, vào năm 1950, Hồ Chí Minh từ miền giải phóng Việt Bắc, bí mật viếng thăm Moscow Liên Xô, Stalin và Mao Trạch Đông không quan tâm Đảng Cộng sản Việt đang chỉnh lưu (có nghĩa là không chú ý đến sự chống hữu khuynh), và Việt Cộng hướng dẫn thực hiện việc chống hữu khuynh, "đào tạo lực lượng nông dân cách mạng", hành động cụ thể là thực hiện phong trào cải cách ruộng đất ở các vùng giải phóng. 

Sau khi Hồ Chí Minh trở về, Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản (sau này là Bộ Chính trị) bí mật thực hiện cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị trong vòng hai năm. Cách hoạt động bao gồm trong hệ tư tưởng, đường dây chính sách và các khía cạnh tổ chức. Tùy theo sự xúi giục của Mao Trạch Đông và Stalin. Trung Quốc sẽ giúp Việt Cộng cải cách ruộng đất. Vì vậy, Hồ Chí Minh mời chuyên gia Cố vấn Trung Quốc. Đại sứ Trung Cộng La Quý Ba (Luo Guibo) được Hồ Chí Minh bổ nhiệm làm người đứng đầu Cố Vấn và các ông Vi Quốc Thanh đứng đầu Cố vấn quân sự, Kiều Hiểu Quang (Qiao Xiaoguang) tỉnh Quảng Tây làm phó bí thư Cố vấn nhóm cải cách ruộng đất, ngoài ra, cán bộ Việt Cộng được đào tạo và hợp nhất hành động thay cũ đổi mới (tức là từ ngữ Trung Quốc "chỉnh phong", Cố vấn an ninh công cộng, Cố vấn tổ chức và chuyên gia Cố vấn vv... tất cả cán bộ chính trị, quân sự, đảng viên được những Cố vấn huấn luyện quân sự và tư tưởng. 

Năm 1952 theo nghị quyết "phong trào cải cách", CPVM và Trung ương Đảng đề cao thực hiện chiến dịch "đào tạo và củng cố toàn bộ trong quân đội". Về mặt tổ chức cải cách ruộng đất Việt Cộng thành lập Ủy ban Trung ương bởi Trường Chinh làm Giám đốc và Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt Phó giám đốc, Hồ Viết Thắng (Hu Yuesheng) Ủy ban Thường vụ. Ủy ban được thành lập trước khi khởi động cải cách ruộng đất. Việt Cộng tổ chức đội ngũ đối phó với nông dân và kẻ thù giai cấp, chiến dịch này tấn công dữ dội vào nông dân! Đảng Cộng sản khởi động phong trào cải cách ruộng đất được gọi là "Một oanh thiên di chuyển đến cách mạng", thực hiện "cuộc vận động quần chúng hoàn toàn" [2], có nghĩa là hành trình cải cách ruộng đất mạnh mẽ, không tuyệt vọng, không đội trời chung với nông dân, ngay cả khi hành động nó đã quá cực đoan trái công lý và không có thời điểm dừng lại. 

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng "Đảng Cộng sản là một đảng cách mạng, do đó tham gia vào cuộc cải cách ruộng đất phải có "tinh thần cách mạng", tất nhiên phải là "Một oanh thiên di chuyển đến cách mạng"! Cáo buộc một số quốc gia "cải cách ruộng đất" tiếp cận hòa bình là cải lương, chủ nghĩa tư bản là phản cách mạng, địa chủ phản động, các cấp cán bộ phục vụ vì đảng không dơ bẩn không có đất canh tác". Hồ Chí Minh kêu gọi đảng "mạnh dạn vận động quần chúng", ông đã làm một ví dụ quái gở: "Khi tre nhận được một thẳng cong, sinh mạng bạn ở đó và tay phản lại kéo dài nó ra, sau đó đứng thẳng trước mọi người, sai khiến chúng nó đi theo đảng". Hồ Chí Minh có vẻ hài lòng giải thích điều đó, nhưng ông đã không nhận ra rằng "nhanh chóng uốn cong hơn một chút" sẽ có một thảm họa! Vì vậy, mỗi đội cải cách ruộng đất hoạt động trong khu vực nông thôn nhất định. Việt Minh nắm trên tay quyền lực không giới hạn, bao gồm cả việc giết hại quyền sống con người. Việt Minh phổ biến câu nói: "Đội cải cách ruộng đất đầu tiên/một lão thiên quyền vô hạn", cán bộ thực hiện cải cách ruộng đất cùng nhau tự hào chiến thắng! Vào thời điểm đó, có một thiếu tướng Vương Thừa Vũ (Wang Chengwu), sư đoàn trưởng 308 đầu tiên và chính trị viên, ông làm Chủ tịch của Ủy ban kiểm soát quân sự Hà Nội, ông trở về thăm thân nhân tại nông thôn ở ngoại ô Hà Nội, ông bị đội cải cách ruộng đất bắt giữ, cùng với chiếc xe và người vệ sĩ. Trước khi thích phóng cấp thành ủy Hà Nội biết sự thật có những phi lý!

Năm 1952 Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN lựa chọn huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên làm thí điểm cải cách ruộng đất, nhưng đã xảy ra một sự kiện đáng ngạc nhiên: Ủy ban Tư pháp cải cách đất đưa bà Nguyễn Thị Năm ra pháp trường bắn chết. Loại bà ra khỏi quyền lực cách mạng. Tuy bà là Chủ tịch hội phụ nữ tỉnh Thái Nguyên, tích cực tham gia vào những hoạt động phụ nữ và "Tuần lễ vàng" bà đã dâng hiến cho Việt Minh một trăm hai mươi lạng vàng. Con trai của bà gia nhập quân đội chống Pháp, quân hàm Đại tá, trong hàng ngũ Việt Cộng có quá nhiều những kẻ bắt nạt nhân dân. Sau khi, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xem xét trường hợp của bà Năm, Ban Chấp hành Trung ương chấp thuận thực hiện đội cải cách ruộng đất! Đưa bà Năm vào danh sách địa chủ cần tử hình.

Những âm thanh của tiếng súng đầu tiên, nhằm vào địa chủ nhằm thực hiện cải cách ruộng đất. Cộng Sản bắn một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cách mạng! Cho thấy tâm lý của những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản quá tồi tệ! Nó dự báo thảm họa dân tộc Việt Nam đang trên đà phá sản đạo đức! 

Năm 1953 phong trào cải cách chính thức khởi động. Đảng đã sẵn sàng ban hành một loạt những chính sách để "hợp pháp hóa" chế độ, và những nghị quyết của chính phủ quy định, theo thông báo chuyển đến các phòng ban khác nhau cùng hành động. Theo số liệu của Việt Cộng, báo cáo phong trào cải cách ruộng đất, tiến bộ đầy máu chứa trong nhiều số hồ sơ: 

- Cuối tháng Giêng năm 1953, độ phân giải Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về các chính sách cải cách ruộng đất xem lại các dự thảo tịch thu đất của địa chủ. Tại cuộc họp Hồ Chí Minh, đề nghị triệt để thực hiện phong trào cải cách ruộng đất. 

- Vào đầu tháng 3 năm 1953, chính phủ đã triệu tập một cuộc họp để thảo luận về các mục tiêu và nguyên tắc cải cách ruộng đất, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói về kế hoạch vận động quần chúng. Cuộc họp thông qua các chính sách cải cách ruộng đất và vận động quần chúng thành lập những tập thể chung sống chung làm việc, đó là chính sách của đảng "hợp pháp hóa" quyền đảng tung hoành không ai cản trở. 

- Ngày 01 tháng 3 năm 1953 đến ngày 05, Nhật báo "Nhân Dân" loan tin Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, Ban Tổ chức Trung ương Lê Văn Lương (Li Wenliang) Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp việc đào tạo và biên tập những bài báo của tổ chức cải cách ruộng đất. Trong khi đó vào ngày 16 tháng 3 1953, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã ban hành đến các cấp để vận động quần chúng và đào tạo, theo khuôn mẫu duy nhất. Đảng hiện đại hóa đào tạo cán bộ và củng cố thế lực đã có dấu hiệu kết quả "không phụ thuộc vào công thức đình công, trừ bỏ cấu trúc xã hội cũ nông thôn, xây dựng một tổ chức mới" theo tinh thần cách mạng. 

- Ngày 12 tháng 4 năm 1953, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã ban hành một nghị định: Quy định 1/ Chính sách cải cách ruộng đất, bao gồm tịch thu, sung công; 2/ UBND thiết lập hệ thống vận động quần chúng đẩy mạnh cải cách ruộng đất; 3/ thực hiện quy định nơi cải cách ruộng đất, vận động quần chúng chống lại hàng loạt địa chủ. 

- Ngày 01 tháng 6 năm 1953, Nhật báo "Nhân Dân" công bố cuộc hành quân dài về cải cách ruộng đất. 

- Tháng 6 năm 1953, các công nhân, đảng viên và cán bộ nâng cao vị thế đẳng cấp phát động phong trào và được gọi là chiến dịch "huấn luyện chính trị và củng cố". 

- Ngày 14 tháng 11 năm 1953, cuộc họp thứ năm của hội nghị toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam đã được tổ chức để công bố độ phân giải ruộng đất. Tại cuộc họp Hồ Chí Minh, tuyên bố khẩu hiệu "chúng ta hãy đi vận động quần chúng, thực hiện phong trào cải cách ruộng đất". [4]

- Ngày 01 tháng 12 năm 1953 đến ngày 4, Quốc hội đã tổ chức bốn cuộc họp trong lần thứ ba, Hồ Chí Minh đọc báo cáo "Tình hình hiện nay với phong trào cải cách ruộng đất" [5]. Ngày 04 tháng 12, Đại hội đã thông qua luật cải cách ruộng đất. Sau đó, nghị định được thông qua bởi Quốc hội Hồ Chí Minh ban hành. Kể từ đó, Hồ bắt đầu chuyển động giai đoạn hai và những giai đoạn khác về cải cách ruộng đất, giai đoạn đầu tiên chọn sáu cộng đồng trên địa bàn tâm điểm tỉnh Thái Nguyên - Thanh Hóa, mỗi đoàn bốn mươi bảy (47) người. Sau đó, công tác thêm các vùng núi, tất cả các tỉnh miền Bắc khởi động đấu tố. Một sự cố tại huyện Lưu Huỳnh (Quỳnh Lưu) Phát Diệm nông dân tức giận công khai chống lại, Ủy ban Trung ương (CPC) trong những vùng núi chỉ được thay thế bằng chiến dịch "cải cách dân chủ". Tạm sử dụng bạo lực, để loại bỏ phong kiến ​​địa phương (gọi là thổ hào), vì sợ người dân chống lại và chạy sang Trung Quốc, Lào....... Như tại huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị, vì gần biên giới với Việt Nam Cộng Hòa cũng đã từng là trung tâm "chính sách" cải cách ruộng đất không thích hợp cho miền Nam Việt Nam, cho nên bạo lực địa chủ không tác động xấu. 

Từ năm 1951 đến năm 1952, Việt Minh đã chuẩn bị học tập, bao gồm tất cả khía cạnh công tác, đầu tiên thống nhất suy nghĩ trong đảng và quân đội duy nhất bảo vệ đảng. Được gọi là "đào tạo và hợp nhất", "toàn bộ quân đội". Nếu công tác chung với Cố vấn, sau đó cán bộ phải trải qua giải thích với đảng "Bác", việc mở cửa tư tưởng phải phù hợp với đảng. Những đội cải cách ruộng đất, khoảng bốn mươi nhóm quân nhân chịu trách nhiệm công tác của đội cải cách ruộng đất, không được tiếp nhận đề nghị của người dân địa phương. Vì sợ rằng người dân sẽ nói "thương xót" địa chủ. 

Những đối tượng nông dân nghèo, lao động nông nghiệp đồng tham gia thực hiện cải cách ruộng đất do đội "tam cộng", tổ chức thành sinh hoạt ăn uống, ngủ một tổng, tổng số lao động. Họ xúi giục nông dân khiếu nại, vạch trần địa chủ, vận dụng hận thù địa chủ. Sau đó kích động những người khác tham gia. Nó được gọi là "Trong vùng lân cận của ba phương pháp tiếp cận". Họ ghi lại dữ liệu của dân, chia rẽ dân đối đầu với địa chủ, phú nông, nông dân nghèo, nông dân trung lưu và các thành phần khác. Đội cải cách ruộng đất chủ động bạo hành, thường bao quanh ngôi nhà của địa chủ. Để chuẩn bị tịch thu tài sản. Đảng được quyền đào xới quanh nhà địa chủ, tìm kiếm vàng và tiền bạc. Ngay cả áo quần cũng lục soát và tìm kiếm tài sản của khổ chủ.

Hồ Chí Minh xúi giục con tố cha hay mẹ, vợ tố chồng, anh em tố lẫn nhau, bà con nội ngoại tố không bỏ sót một ai. Sử dụng ngôn ngữ xấu hổ chỉ vào mặt nạn nhân. Sử dụng thù hận và tham lam của trái tim mọi người, đảng hứa sẽ chia nhiều đất hoặc tài sản cho những ai đấu tố thành công. Trước những lời chỉ trích, làm thế nào để địa chủ phải quỳ xuống nhận tội, làm thế nào để hô khẩu hiệu theo đảng hướng dẫn trước. Tổng kết chỉ trích sau hai hoặc ba ngày để thực hiện gợi ý "Bác" đảng và gợi ý của Cố vấn Trung Quốc cho phép đấu tố đổi trắng thay đen, đảng đã có kế hoạch nếu cần thiết sửa chữa 5% tỷ lệ địa chủ và phú nông vào chiến dịch chính trị. Một lĩnh vực khác đảng dàn dựng những cuộc đấu tố cho đến khi nào thấy địa chủ nhận thảm họa vào thân. 

Tháng 9 năm 1956, Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ X, chiếu theo nghị quyết đại hội 9 thi hành cải cách ruộng đất cần hoàn chỉnh. Từ Hội nghị này cán bộ tương đối bất mãn và ảnh hưởng áp lực, Ủy ban Trung ương CPC buộc nhận tội sai lầm nghiêm trọng trong các phong trào và đồng ý để sửa chữa sai sót. Những trung tâm thực hiện hình phạt kỷ luật: Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí thư, lưu giữ thành viên Bộ Chính trị; Hoàng Quốc Việt và Lý Văn Lương đuổi ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng (Hu Yuesheng) cũng bị khai trừ khỏi Trung ương. Lê Duẩn được bầu vào Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương, còn Hồ Chí Minh chạy tội.

Ngày 29 tháng 10 năm 1956, tổ chức một cuộc mít tinh tại phía trước Quảng trường Nhà hát nhân dân Hà Nội, thành viên Bộ Chính trị tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức công nhận những sai phạm của phong trào cải cách ruộng đất. Hai nhà lãnh đạo hàng đầu Hồ Chí Minh, Trường Chinh chịu trách nhiệm lớn nhất đối với nhân dân. Tuy nhiên Hồ Chí Minh, Trường Chinh vắng mặt. Võ Nguyên Giáp cho biết "tại sân vận động Hàng Đẫy Bác nói lắp bấp đôi điều và khóc ở nơi công cộng, cuộc mít tinh tổ chức bởi thành ủy Hà Nội". Việt Cộng cha đẻ nói dối, trên thực tế Hồ Chí Minh chưa hề có mặt tại cuộc mít tin sân vận động Hàng Đẫy. Võ Nguyên Giáp tự dựng chuyện tuyên bố láo bố lếu, thế nhưng lại được lưu hành trong lịch sử đảng. Võ Nguyên Giáp còn cho biết "tại thời điểm này "Bác Hồ không thuận tiện đến đây". Những người hiểu biết, Hồ đã không có mặt làm gì có những giọt nước mắt như thế được, nước mắt của Hồ Chí Minh không bao giờ xảy ra tại đây, cho nên Võ Nguyên Giáp xuất hiện để chịu tội thay thế cho Hồ. Cộng thêm một cuộc gian dối của Hồ!

"Hồ Chí Minh tự khóc dối, lấy nước mắt giả mạo sửa sai" một bản kịch quá tuyệt vời, loan tải trên báo nội san "Cách mạng ruộng đất". Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.

Đảng không thừa nhận sai lầm chỉ thay đổi chính sách.

Tháng 7 năm 1956, Đảng Bộ Chính trị, Ủy ban Trung ương và Ban Thư ký v.v... đã tổ chức nhiều cuộc họp thảo luận về những sai phạm trong cải cách ruộng đất và thực hiện thay đổi chính sách. Cuộc họp quan trọng nhất là Hội nghị Trung ương thứ mười trong tháng Chín. Đây là cuộc họp đầu tiên và lâu nhất, nó đã chia hai lần họp và trì hoãn cho đến cuối tháng mười một. Cựu Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam Hoàng Văn Hoan, ông đã từng có mười năm (10) làm đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, và sau đó đào thoát khỏi Việt Nam trong thập niên tám mươi (80), ông tìm kiếm nơi trú ẩn, xin ĐCSTQ tỵ nạn chính trị, ông cho biết. "Nếu Hồ Chí Minh có khóc đó chỉ là nước mắt thả trong đại dương" và "Giọt nước trong biển cả", (hồi ký Hoàng Văn Hoan) [6] có nói về cuộc họp tháng 7. Hoan lặp đi lặp lại nói về cuộc họp rõ ràng lỗi lầm thực hiện cải cách ruộng đất. Ông viết: "Trường Chinh chịu trách nhiệm về công việc của Ủy ban Cải cách ruộng đất, mặc dù rất khó để bác bỏ, nhưng (Chinh) vẫn phấn đấu để xem xét cải cách ruộng đất ở nông thôn và xem là một thắng lợi lớn, cố gắng tránh nói về những sai lầm, Hồ không thẳng thắn thừa nhận những sai lầm. Hoàng Quốc Việt đã không thừa nhận lỗi. Chỉ có Vụ trưởng Vụ Tổ chức Trung ương CPC Lê Văn Lương (Li Wenliang) thừa nhận sai lầm trong việc tổ chức chỉnh đốn đảng......", cuộc họp Ủy ban Trung ương Đảng chưa thực hiện một báo cáo về cải cách ruộng đất, một bài học được phân giải, nhưng Trường Chinh Tổng Bí thư và Chủ tịch Ủy ban "Cải cách ruộng đất" có tư duy luân lý riêng luôn luôn phản bội dân tộc Việt Nam, vì vậy có vài lần dự thảo nghị quyết, quan điểm không được Hội nghị Trung ương phổ biến. 

Bốn năm sau, Việt Cộng Đại hội lần thứ ba tổ chức vào năm 1960, độ phân giải cũng không thể viết ra được, nhưng sau đó lại không có ai đề cập đến nó vì sợ hãi đảng. Đây không phải là lần đầu tiên giải quyết đã được thông qua tại cuộc họp trung tâm hội nghị quan trọng. Hoàng Văn Hoan cho biết thêm rằng "các lỗi trong quá trình sửa đổi, thái độ của Trường Chinh luôn luôn là không rõ ràng". Như vậy, chúng ta có thể làm một giải thích, mặc dù bị giáng chức đối với biện pháp kỷ luật, nhưng có vẻ như Trường Chinh không tin rằng cuộc tuần hành được tổ chức một cách gián tiếp đấu tố người chịu trách nhiệm thay mặt cho "Bác" đảng và những lãnh đạo khác.

Một trò chơi đầy máu và nước mắt của "Bác" thể hiện qua cải cách ruộng đất quá tàn ác và bất công, cuối cùng cải cách ruộng đất buộc phải dừng lại. Theo thống kê, đảng đã tiến hành tổng cộng tám khu toàn miền Bắc, chia thành năm giai đoạn cải cách ruộng đất đã có 3563 nhóm đội thực hiện phong trào quần chúng cải cách ruộng đất. 

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện (2009) nói vấn đề để sửa đổi các chính sách và thực hiện cải cách ruộng đất như sau: "Sửa đổi chính sách địa chủ không được phục hồi, nhưng đối với đảng viên có công trạng chống Pháp càng làm những điều sai trái lớn hơn, càng có nhiều đảng viên hiếp dâm dân làng... chứng minh, người dân sợ hãi không đề cập đến những tồi bại của họ. Trong thực tế, những người đã được phân loại là thành phần địa chủ đã từ lâu họ đưa vào nhà tù chung thân. Nhiều, rất nhiều người dân bị hành quyết ngay tại chỗ, đó là nơi tôi đã bị tù, và sau đó tôi trở về nhà, đã nhận thức được điều đó và không ai dám phán đối tội của "Bác" đảng. Rằng ở quê tôi, hai anh em Hồ Tính (Hu Xing) đã được liệt kê vào địa chủ, nhưng họ không giàu có, họ cũng đã bị đặt trước cải cách ruộng đất về tội phản động. Phó Chủ tịch Việt Minh tích cực đưa nông dân vào tù. Có một người tự tử, hai người kia đang ở trong tù. Tất cả đã chết trong tù, làng tôi được đặt dưới gọng kềm và nhà tù mà không có một người phản đối, sau đó không ai trở về nhà (mất tích). Cho đến năm 1961, khi tôi bị kết án tù, tôi đã gặp rất nhiều người đã được phân loại như các địa chủ vẫn còn sống trong tù. Lần thứ hai tôi bị kết án từ năm 1966-1977, tôi vẫn nhìn thấy những người địa chủ còn trong tù, mặc dù nhiều người chết". 

Cuối năm 1947 và đầu năm 1948, ĐCSTQ tiến hành triệt để cải cách ruộng đất ở vùng Đông Bắc và khu vực phía Bắc rộng lớn, việc thực hiện một số chính sách cùng cực và khắc nghiệt nhất có nghĩa là không chỉ tịch thu đất đai của địa chủ, và tài sản nông dân nhiều đất, thanh lý khu vực nông thôn không theo Cộng sản và nghi ngờ địa bàn phản động. Cho đến giữa năm 1948, cải cách ruộng đất được thực hiện ở các khu vực khác nhau, chuyển sang cấm nhân dân di chuyển, giảm bớt đi lại của nhân dân, cho đến vài năm sau đó Trung Cộng mới thực hiện được cải cách ruộng đất và thành công. Trung Cộng cho rằng ngày nay nhân dân tiếp cận "thoải mái hơn" thực tế chỉ tương đối bởi trước mắt đã có hàng trăm ngàn địa chủ bị xử tử. Ở Việt Nam, Việt Cộng thực hiện chính sách của mặt trận thống nhất gọi là đoàn kết, vẫn chưa kết thúc đấu tranh giai cấp. 

Dựa trên một số lượng lớn các thông tin đáng tin cậy đã tiết lộ cải cách ruộng đất tại Việt Nam, Việt Cộng đang ảnh hưởng nghiêm trọng về kỹ thuật đấu tố của Trung Cộng, cán bộ đảng cùng với Cố vấn Trung Cộng tích cực tham gia thực hiện cải cách ruộng đất, Việt Nam làm cuộc cách mạng tương tự như Trung Cộng, họ cũng nhận ra chính sách cải cách ruộng đất không thực tiễn nhưng hoàn toàn đúng trong suy luận của Trung Cộng cho nên đã truyền vào Việt Nam vì họ đồng đảng.

Trong thời gian, cải cách ruộng đất tại Trung Quốc, tiếp theo được thực hiện ở Việt Nam, chính Trung Cộng đã sai phạm nghiêm trọng chính sách, tại sao Hồ Chí Minh lại tự nhận mình là "em trai" của Trung Cộng để rồi thiết lập chính sách cải cách ruộng đất khắc nghiệt lên đầu Việt Nam? Câu hỏi này rất nhiều bối rối cho các nhà điều tra. Lời giải thích duy nhất là chính sách cải cách ruộng đất của Trung Cộng quá phức tạp làm Mao Trạch Đông "mù lòa" chấp nhận bán món hàng cải cách ruộng đất cho Việt Nam, và Hồ Chí Minh cũng không tránh khỏi "đui mù và điếc", Tất nhiên Trung Cộng hoàn tất đã làm phiên bản cải cách ruộng đất bảo đảm Hồ Chí Minh thực hiện sẽ thành công như Mao Trạch Đông. Việt Cộng chỉ đơn giản tin lời cam kết của Mao Trạch Đông, bất kỳ lỗi hay sai trái trong hành động cải cách ruộng đất đều biến mất trong lòng đảng, cuối cùng rồi Hồ Chí Minh vẫn chiến thắng, "Bác" đã tuyên bố "quyền lợi của đảng ta toàn chiến thắng"! 

Chính sách cải cách ruộng đất quá sai lầm của Việt Cộng được sửa đổi thu nhỏ lại chỉ còn hoạt động vùng ngoại ô Hà Nội. Nhân dịp viết bài này, chúng tôi xin đọc lại bài thơ trào phúng ngắn của người dân nông thôn Nghệ An, Hà Tỉnh nổi dậy chống đối đảng Cộng sản của Hồ Chí Minh, vào năm 1955, đã được người dân loan truyền rộng rãi:

"Bác Hồ nói để sửa sai
Sai về việc thay đổi, thay đổi và sai 
Xuất sắc bên mới nổi 
Các sai lầm, để thay đổi để thay đổi tất cả các sai". 

29/05/2015



________________________________________________

Chú thích:

[1] "chấp hành xử quyết hành hình thị dã man đích hành vi", "tuyệt đối bất khả chấp hành xử quyết hành hình, nhược thôi hành xử quyết hành hình thị dữ đảng hòa chánh phủ đích chánh sách tương vi bối, dữ cách mệnh đích tác phong tương vi bối". (胡志明政治报告执行处决行刑是野蛮的行为", "胡志明政治报告绝对不可执行处决行刑, 若推行处决行刑是与党和政府的政策相违背, 与革命的作风相违背).

[2] "nhất tràng oanh thiên động địa đích cách mệnh", và "sung phần phóng thủ phát động quần chúng". (一场轰天动地的革命", 要 "充份放手发动群众).

[3] "đương yếu bả loan khúc liễu đích trúc điều tái lộng trực thì, nhĩ yếu bả tha phản khuất quá lai nhất điểm tịnh thủ trì cửu ta, nhiên hậu tài phóng thủ, na yêu tài khả lộng trực. (当要把弯曲了的竹条再弄直时, 你要把它反屈过来一点并手持久些, 然后才放手, 那么才可弄直).

[4] phóng thủ phát động quần chúng,tiến hành thổ cải vận động. (放手发动群众, 进行土改运动).

[5] "mục tiền hình thế dữ thổ cải vận động đích nhậm vụ". (目前形势与土改运动的任务).

[6] "沧海一粟" và ( Giọt Nước Trong Biển Cả ) 回忆录.