Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 2)
GS Lê Hữu Khóa
30-6-2018
Tiếp theo phần 1
Tầu họa: quá trình áp chế bằng bạo quyền ngầm
Hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế), song hành với hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm lăng) luôn dựa lên hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động), cả ba thường được thể hiện qua cách “chơi ngang”, “chơi gác”, “chơi đểu” của kẻ khống chế đè lên đầu nạn nhân của nó. Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn có ít nhất ba chiến lược: áp đặt quyền thống chế trên chính trị, quân sự, ngoại giao, mà cả lên kinh tế, tài chính, vật chất, chưa hết, nó áp đặt để áp chế cả về văn hóa, giáo dục, nghệ thuật của nó qua truyền thông, qua thương mại, qua xuất nhập khẩu.
Đây là thảm kịch của nhiều thế hệ Việt hiện nay, với các người lớn tuổi, nhỏ tuổi suốt ngày xem phim ảnh Tầu tràn lan khắp các kênh truyền hình, với các thành viên khâm phục diễn viên, tài tử Tầu, với các sản phẩm văn hóa ở cấp xấu, tồi, tục, dở nhưng được quảng cáo và tuyên truyền là mới, là hay, là chuẩn, là lạ.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, sáng lập tương lai của nó qua chương trình trong đó nạn nhân của nó phải có đóng góp qua quá trình bị bóc lột, bị khổ sai trong nô lệ trên nhiều lãnh vực, ngay trong sinh hoạt của chính mình. Trong đó không những chủ là Tầu, mà các dịch vụ có quyền uy, có chất lượng đều do Tầu thống lãnh hoặc bị nó thao túng, cụ thể là nạn nhân phải gián tiếp đóng góp vào các phương án phát triển của kẻ xâm lược mình. Đây là thảm họa không sao lường hết được trong đó nạn nhận là Việt tộc phải cúi đầu cam nhận các công nghiệp ô nhiễm nhất, các doanh nghiệp bất chính nhất, các lực lượng lao động thậm tệ nhất ngay trên đất nước Việt để phục vụ cho thâm ý của Tầu tặc là đặt các quy trình sản suất bẩn nhất, ô nhiễm nhất bắt buộc Việt tộc nhận, và chúng sẽ biến đất nước chúng “ngày càng sạch”, vì đống rác của chúng đã ở tại Việt Nam.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, luôn lý luận theo hệ dây chuyền để biến nó thành dây xích để xiềng cổ, còng tay nạn nhân của nó, biến lệ thuộc chính trị dài lâu thành quy phục quân sự qua nhiều thế hệ, dựa trên thỏa hiệp ngầm luôn có lời cho kẻ xâm lược. Đây là hệ lụy tầu nạn rỏ nhất trong những năm qua, mà nan nhân là các chiến sĩ biên phòng bảo vệ đảo Gạc Ma, không dược quyền tự vệ, phải buông súng hy sinh trong vô nghĩa, khi Lê Đức Anh là bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra lệnh không được cầm súng để bảo vệ biển đảo của quê hương. Cái xiềng cổ của mật nghị Thành đô đã xiết cổ, khóa họng bọn lãnh đạo bán nước, nhắm mắt làm ngơ cho Tầu tặc cướp nước, rồi ngày ngày “tuyên truyền dùm” qua các mỹ từ: “hai đảng anh em”, “hai láng giềng tốt”… Kẻ xâm lược dùng ức chế bằng bạo quyền, thì luôn có tay sai của nó trong giới lảnh đạo của quốc gia nạn nhân để thi hành chuyện bành trướng và bá quyền của nó.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, luôn sử dụng hai chiêu bài cảnh cáo và trừng phạt luôn áp đặt nạn nhân rơi vào vào quy trình tự kiểm (kiểm duyệt, kiểm tra, kiểm thảo)trước mặt chúng để chúng có bằng chứng về sự quy phục và sự thuần thảo của nạn nhân. Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng rất thuần thục chiêu bài “chỉnh đốn đảng” do các quan thầy của ĐCSTQ bày vẻ, và quá trình chống tham nhũng hiện nay là phản xạ trung thành, để chứng tỏ là mình ngoan ngoãn với Tầu chủ của mình. Thảm kịch của ĐCSVN không những phải cúi đầu-khoanh tay-qùy gối, mà còn phải nhận một quá trình “huấn nhục” trước đàn anh Bắc Kinh, trong đó phải chứng minh cho kẻ áp chế mình hai hành vi: nhẫn nhịn hóa để hèn nhục hóa, đây chính là định nghĩa của tha hóa. Chưa hết, phải biết “học thuộc bài để học thuộc lòng” các bài học mà Tập Cận Bình đã làm tại Trung Quốc là chống tham nhũng, nhưng thực chất là tranh giành quyền lực qua quá trình thành trừng lẩn nhau để thủ tiêu các nhóm đối kháng, để làm lại một sao bảng tầu tại Việt Nam.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, luôn giữ lý lịch nạn nhân (như giư hồ sơ cá nhân của Hồ Chí Minh có vợ Tàu, con Tàu), nó cầm trong tay hồ sơ về thói hư tật xấu của nạn nhân để thao túng hành vi và hành động của nạn nhân. Nó sử dụng hồ sơ mật cá nhân để giật dây nạn nhân trong cả cuộc đời và sự nghiệp của họ. Mật hóa rồi công khai hóa hồ sơ về bí mật cá nhân để thao túng nạn nhân chính là các lảnh đạo của ĐCSVN, mà nắm hồ sơ mật là để nạn nhân ở thế “cá nằm trên thớt”. Đây là tai họa của Tầu nạn trong việc chia cắt đất nước đất nước Việt ra làm hai năm 1954 tại Genève, mà cái thâm, độc, ác, hiểm của Tầu họa, chính Chu Ân Lai áp đặt vỉ tuyến 17, trên sông Bến Hải để chia cắt đất nước ta, mà trưởng đoàn của Việt Minh là Phạm Văn Đồng, ngay bàn đàm phán còn không biết sông Bến Hải là ở chỗ nào? Ông bà ta dặn con cháu muốn thắng giặc thì phải “đi guốt trong bụng giặc”, chính Tầu tặc đã nhiều lần đi guốc trong bụng chúng ta khi sử dụng Kiều Công Tiển, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, trong các lãnh đạo cộng sản Việt Nam có Hoàng Văn Hoan mớ đường; mà tướng Trương Giang Long đã báo cho ta biết gần đây là có hằng trăm loại bán nước kiểu này hay kiểu kia trong ĐCSVN hiện nay.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, thường bắt buộc nạn nhân phải quan sát các động thái của nó để đoán trước các ý muốn của nó, và tự kiểm duyệt mọi quyền lợi riêng của mình “để làm vừa lòng” kẻ xâm lược. Đây là một thảm họa ngầm nhưng âm ỉ trong sinh hoạt lãnh đạo của ĐCSVN, muốn Tầu tặc che chở, bảo kê cho mình thì phải “ra công thi đua” để “làm vừa lòng đàn anh”, sẵn sàng chi trả các giá phải trả cho mình, từ đó biến kẻ phản phúc, phản đồng đội thành kẻ về lâu, về dài là kẻ bán nước, có thể sống và chết bên Tàu, mà không cần “quê cha đất tổ”, không cần “lá rụng về cội”, quên luôn nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình. Khi biết là “bán nước” mà sống bên Tàu “không vui” mà còn “mang nhục vào thân” thì phải tẩu tán tiền của qua phương Tây, và đã chuẩn bị quốc tịch nước ngoài. Bán nước rồi bỏ chạy là kiếp của bọn phản phúc, lấy phản quốc làm dàn phóng phản xạ đào tẩu.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, thường sử dụng sức ép chính trị để làm giầu trong thương mại, tăng trưởng trong kinh tế, và nó luôn lấy sức mạnh quân sự để làm trước, làm thay, làm càng để qua mặt nạn nhân của nó. Tầu tặc không những khai thác dầu khí trên biển Đông, sau khi cướp được đảo của Việt Nam, mà chúng còn tự nhiên và ngang nhiên xây dựng các căn cứ quân sự, cùng lúc phát triển du lịch trên đất vừa cướp được của nạn nhân. Đây là câu chuyện rất khó cho Việt tộc với một kẻ vừa mạnh và vừa tục, vừa bạo và vừa thô, Tầu tặc không có một mẫu số chung gì với các đạo lý của Khổng Tử, Lảo Tử, Mạnh Tử, Trang Tử mà ta vẫn xem là các bật thầy. Tầu tặc xây các viện Khổng học để làm chuyện phản Khổng học, tức là phản đạo lý của chữ nhântrong Khổng giáo. Đừng mong chúng dùng các phạm trù lý luận về đạo lý trong Khổng giáo để biết lẽ phải, để đàm phán đàng hoàng và tử tế với ta. Nếu các lảnh đạo của ĐCSVN có bản lĩnh chính trị, có tầm vóc tri thức, có nội công nhân lý thì cứ tổ chức các hội nghị, hội luận, hội thảo về Hoàng Sa và Trường Sa qua cách tiếp cận của đạo đức Khổng giáo và mời các lãnh đạo Tầu tặc xem chúng có đủ can đảm tham dự không?
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn bắt nạn nhân của nó phải theo sự vận hành của nó, để tạo các đặc quyền, đặc lợi cho nó, trong đó có các đặc khu Hà Tỉnh, mà ta đã phải nhận biết bao Tầu nạn từ biến cố ô nhiễm của Formosa. Bạo quyền ngầm thường thông báo mật cho các tay sai của nó là lãnh đạo của quần chúng nạn nhân về các phương án của nó, sau đó yêu cầu trực tiếp hay gián tiếp lãnh đạo tay sai này của nó phải công bố các phương án tương lai của mình để kẻ xâm lược được chọn chỗ “ăn trên ngồi trốc”, lâu dài hưởng lợi trong nhàn rỗi và bỉ ổi “ngồi mắt ăn bát vàng”. Đây là các thảm họa dây chuyền áp đặt bởi Tầu tặc, vì sau Hà Tĩnh với Formosa, thì lãnh đạo tay sai này sẽ dâng các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc cho chúng.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn tính hai chuyện “chưa đánh đã thắng” nạn nhân của nó, hoặc “thắng trước khi đánh”; mà trong thâm ý của nó là không cho phép nạn nhân của nó: tiết kiệm được tiền của, tích lủy được lợi nhuận, dành dụm được của cải để đầu tư, để phát triển, để làm giầu. Đây là bi sử của Việt tộc, luôn bị Tầu tặc xấm chiếm rồi xâm lược, xâm lăng rồi đô hộ, cùng lúc Tầu tặc luôn áp đặt trên lưng, trên vai, trên đầu người Việt những cuộc chiến tàn khốc để người Việt phải chịu hao tổn sinh lực, suy kiệt tiềm lực, tán gia bại sản ngay trên đất nước mình.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó làm đau đớn tức khắc nạn nhân của nó, và sau đó làm đau khổ dài lâu cho tư duy của nạn nhân, từ đó chính đồng bào sẽ khinh rẻ lãnh đạo, vì lãnh đạo bất tín với dân tộc, trong một xã hội mà ai cũng là nạn nhân, và thủ đoạn của kẻ xâm lược là không chừa một ai trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội. Nơi mà dân tộc phải sống trong ngờ vực, nghi kỵ, rình rập, nhìn đâu cũng thấy bẫy của giặc, mà đây là sự thực vì bẫy của Tầu tặc không phải là một mà là trăm, ngàn, qua một mạng lưới được bố trí như màng nhện mà nạn nhân là con mồi! Chính đau khổ của Việt tộc sẽ trở thành nỗi sợ hãi, nỗi lo lắng, trầm cảm tập thể với nhiều sức ép tới từ nhiều phía, từ biển đảo tới thực phẩm, từ môi trường tới quốc phòng, từ thương mại tới công nghiệp, từ xuất nhập khẩu tới đời sống văn hóa, giáo dục, tâm linh… mà muốn thoát Tầu chỉ có cách dùng can đảm của chính mình để khẳng định nhân tính của mình, lấy bất khuất để xác chứng nhân phẩm của mình.
– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm thường nói “nửa lời” để nạn nhân vừa phải đoán đầy đủ thâm ý của nó, vì sợ bạo lực của nó, vì kẻ áp chế càng mập mờ thì nạn nhân càng rơi vô bẫy. Cách ăn nói “lập lờ” kẻ xâm lược vừa là một xảo ngôn để khống chế, vừa là một vũ khí dùng đó như cái cớ mà hãm hại nạn nhân. Đây là thảm kịch của các lãnh đạo ĐCSVN luôn sống và quan hệ với Tầu tặc trong cái nơm nớp lo sợ là có ngày chúng sẽ công bố toàn bộ mật nghị Thành Đô, đời sống không đạo đức của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, Âu châu… các tên tuổi của các tay sai đã, đang phản quốc, bán nước đang còn sống và còn quyền trong ĐCSVN.
Tàu hoại: quá trình ức chế bằng bạo ngược ngầm
Hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế), song hành với hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm lăng) cả hai cặp kè với hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động), nhưng không quên khai thác hệ tà (tà quyền, tà lực, tà đạo) sinh ra tà tâmcủa một số bọn lãnh đạo bán nước, vì “theo ma phải sợ ma”, “theo quỷ phải sợ quỷ”, “theo Tầu vì sợ Tầu”.
Chính kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) để chế tác tiếp theo hệ hoại (phá hoại, hủy hoại, di hoại). Đây là nguyên nhân mà mọi người Việt có trách nhiệm với đất nước, có lương tri với đồng bào mình phải thấy, hiểu, thấu độ sâu hiểm, độ xa độc, độ ác rộng của ngữ pháp Tầu hoại. Và đây là hằng số đề phòng, hàm số cẩn trọng của tất cả các lãnh đạo của Việt Nam trong các năm tới, vì bọn lãnh đạo hiện nay xem như theo Tầu rồi! Đây cũng là hệ vấn đề nghiên cứu thường xuyên của tất cả các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn trước hoại Tầu nạn và Tầu họa:
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ này, để chế ra các phương án mới, bắt nạn nhân của nó phải chạy theo nó trong hoảng sợ, trong tán loạn, “mất hồn như bị ma đuổi”, làm nạn nhân mà không sao chủ động được số kiếp của mình, nếu mình đã nhận “bán nước”cho Tầu tà. Kẻ khống chế lắm bạc nhiều tiền, là chủ nợ rồi thì chúng sẽ muốn làm chủ đất, đó là quy luật “chiếm đất để chiếm nước” của chúng. Đây là nơi mà các lãnh đạo của ĐCSVN đang bị rơi bẫy: Tầu vào đất Việt như chốn không người, sau khi đã chiếm đảo biển, giờ thì mua tràn lan bất động sản qua tên người Việt trên cả nước, chưa đủ, Bộ Chính trị của ĐCSVN đã mở cửa mời chúng trong ba đặc khu: Vân Đồn miền Bắc cận kề với Tầu, Bắc Vân Phong miền Trung giữa địa dư chiến lược Thái Bình Dương, Phú Quốc miền Nam ngã tư của Việt Nam với Đông Nam Á.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn là thủ phạm giữ số liệu và tin tức mật nhiều hơn nạn nhân của nó, vì nó luôn khai thác các ngõ ngách của đấu tranh nội bộ giữa các nhóm quyền lực, giữa các nhóm lợi ích, giữa các mafia dùng tà quyền để thành trừng lẫn nhau, mà nó sẽ là “ngư ông đắc lợi”. Và, chúng càng thích thú vị thế “ngọa sơn để xem hổ đấu”, chiêm ngưỡng các bè nhóm tiêu diệt nhau, nhưng hậu quả là “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”, chỉ có dân khổ, dân nghèo, dân chết… Đây là chuyện có tính toán của kẻ khống chế sử dụng bốn hệ này. Hoạn kịch của ĐCSVN trong chiến dịch chống tham nhũng của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đi cùng với các cuộc thanh trừng nhau qua ám sát các lãnh đạo Yên Bái cho tới các cuộc giết hại nhau trong các bộ Quốc phòng và Công an, đồng điệu với các chiến dịch đàn áp các chủ thể đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền.
– Kẻ khống chế sử dụng 4 hệ (khống, xâm, bạo, tà) rất thích thú khi bọn tay sai tư pháp của ĐCSVN tuyên án nhiều năm tù chống nhóm Anh Em dân chủ, mà các người mẹ của lương tâm Việt như Nguyễn Thị Như Quỳnh (Mẹ Nấm), Nguyễn Thị Nga… và chúng rất khoái trá khi số tù nhân lương tâm ngày càng tăng trong các nhà tù cộng sản, mà các lãnh đạo ĐCSVN chứng tỏ mình “mạnh tay đàn áp” để “lấy điểm” với kẻ xâm lược.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn bắt nạn nhân của nó phải hiểu chủ thuyết dân tộc trung tâm của nó: Trung Hoa tức là ở trung tâm và hoa mỹ hơn các nơi chung quanh. Chủ nghĩa dân tộc trung tâm tạo tiền đề cho kẻ xâm lược tuyên truyền về một văn hóa đẹp ở giữa trần gian của nó, mà còn luôn “rộng miệng” tuyên bố nó là một văn minh cao, cùng lúc tạo các làn sóng xuất khẩu tràn lan văn hóa phẩm của nó vào xã hội của nạn nhân. Một bi kịch mà mỗi người Việt hiện nay thấy hằng giờ các phim ảnh, âm nhạc, thời trang… của Tầu trong nhà ngoài phố, từ chợ tới các kinh truyền hình, xem những bộ phim dài của Tầu, trong thụ động như đang sống trong một tư thế tiêu thụ thấp kém nhất.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn áp bức nạn nhân của nó phải hiểu cơ cấu tu duy và lý luận của kẻ xâm lược, cùng lúc thôi thúc bọn lãnh đạo bán nước để “cửa ngõ”, với tư thế sẵn sàng vừa hợp tác, vừa đầu tư làm giầu tức khắc hoặc lâu dài cho kẻ thống trị. Đây là thảm họa biển người du lịch Tầu đang dầy đặc đất nước Việt, nhiễm ô môi trường du lịch, lại còn mang cả các dịch vụ của chúng vào tận đất nước Việt, cùng bảng hiệu toàn chữ hoa. Thậm chí lợi nhuận không về phía dịch vụ du lịch Việt. Trong khi đó khách du lịch các quốc gia văn minh luôn tránh né du khách Tầu phản cảm vì phản văn minh, họ không muốn trở lại đất Việt để thấy cảnh “chướng tai gai mắt” đất nước Việt đang bị Tầu hóa.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn có một đạo đức giả, dựa trên mỵ dân thô bỉ là nó hay giở trò tổ chức “sống chung” theo ý đồ của kẻ thống trị: bạn vàng, láng giềng tốt, liền núi liền sông… cùng lúc nó không bao giờ cho nạn nhân của nó có vị thế trung tâm như nó, mà phải là nạn nhân trọn kiếp để chạy theo các quyết định và hành động của nó, vì nó đã loại nạn nhân của nó ra ngoài quy trình đề nghị-đàm phán-quyết định-hành động mà nó là kẻ chủ mưu. Đây là kiếp nô lệ của các lãnh đạo ĐCSVN từ gần một thế kỷ qua, từ khi thành lập ĐCSVN năm 1930, với thế hệ đầu tiên của nhóm do Hồ Chí Minh lãnh đạo với các cuộc thảm sát trong cải cách ruộng đất 1954-1956. Sau đó là thế hệ của Lê Duẩn cùng tên ma hoạn Lê Đức Thọ bắt Việt tộc phải trả giá cuộc chiến huynh đệ tương tàn 1954-1975, đánh Mỹ thế cho Tầu, mà mệnh danh nó là chống Mỹ cứu nước. Cho tới nay, với nhiều phe cánh trong ĐCSVN luôn hèn yếu trong ô nhục ngày ngày “lấy lòng Tầu”. Nô lệ hóa Việt tộc qua con đường Tầu hoại này có thượng nguồn vô hình là các âm mưu của các lãnh đạo ĐCSVN đang làm tay sai cho Tầu, và nó ngày ngày hiện hình hóa qua các chính sách đặc khu qua đặc lợi và đặc lợi, để thường xuyên ưu đãi kẻ xâm lược mà nó không cần phải dùng quân sự hay bạo lực.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn xếp theo trình độ và đẳng cấp các ý đồ ma hoại của nó, để nạn nhân luôn là nạn nhân, để nạn nhân không có cơ hội và điều kiện để đoán đúng các mưu đồ thâm, độc, ác, hiểm, vì các mưu đồ này luôn nằm ngoài lương tâm, luôn nằm xa lương tri của nạn nhân, chỉ vì nạn nhân được giáo dục, được giáo dưỡng bằng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, và rất xa lạ với cái phản luân lý thâm, độc, ác, hiểm. Khống chế luôn áp đặt biểu tượng thống trị lên tư duy của nạn nhân, để nạn nhân phải nhận kẻ thống trị vừa là lãnh đạo, vừa là giá trị hướng dẫn cuộc sống và quyền lợi của mình. Hoại kịch của Việt tộc là các lãnh đạo ĐCSVN không do đảng bầu ra, mà dân tộc bị áp chế bới một đảng đang cai trị mình. Đó là thí dụ bi đát của bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, trong tháng 6 năm 2018, khi bà bị chất vấn về xảo thuật đặc khu (Vân Đồn, Bác Vân Phong, Phú Quốc) mà dư luận đã phán kháng kiệt liệt, thì bà đã trả lời là: “đã được Bộ Chính trị bàn rồi!”, mà bà không biết là bà đang điếm hóa lập pháp trước hành pháp dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị mà bà là một thành viên. Không do dân bầu ra, nên vô tri vì vô trí trước họa Tầu tặc mà bà không biết là trong lịch sử Việt cũng như trong lịch sử của thế giới, của tất cả châu lục là Tầu luôn di dân dày đặc những nơi chúng tới, và sau đó không có một chỉnh phủ nào, một quốc gia nào có thể bứng đi được các khu Tầu, xóm Tầu, thành phố Tầu… Ngược lại bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tạo viễn tưởng kiểu đánh lận con đen, để tạo ảo tưởng cho dân là nếu có đặc khu thì: “một đồng bỏ ra sẽ có lời cả trăm đồng sau đó…”. Bà đang quên hiện tại của dân chúng là các công trình mà Tầu rờ tới là “đội giá” và sau đó là “thua lỗ”: bốc xích Tây Nguyên, tuyến đường Hà Đông tại ngay thủ đô Hà Nội. Vô tri vì vô trí luôn là tiêu chuẩn để kẻ xâm lược chọn lãnh đạo bán nước làm tay sai cho nó.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn tạo ra các mồi để nhử các lãnh đạo bán nước, nó mua chuộc xong đám lãnh đạo này, thì chính đám này phải tuyên truyền phản sự thật để được tiếp tục được lãnh đạo, cùng lúc tiếp tục nhân tư lợi được ban thí bởi kẻ khống chế. Đây là chiến thuật mà trong chính trị học gọi là xảo thuật đồng hồ, khi kẻ thống trị nghênh ngang trong quỷ thuật nói với bọn lãnh đạo bán nước là: “Hãy đưa đồng hồ của mình đang đeo trên tay cho tao, thì tao sẽ báo đúng giờ cho mày biết!” Đây là cái bẫy mà ông bà ta đặt tên là “khôn quá hóa dại” bọn lãnh đạo bán nước, luôn tưởng là được Tầu tặc bao che, nhưng thực chất là chúng bán đứng bọn này như trở bàn tay. Bọn lãnh đạo bán nước tưởng đưa được tiền của, con cái, gia đình ra được phương Tây, thì sẽ yên thân mà “cao bay, xa chạy” tại phương Tây: chúng lầm! Phương Tây hiện nay là hình ảnh của cộng hòa Đức đang tố cáo ĐCSVN đã bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, trục xuất các nhân viên tình báo chung quanh sứ quán Việt Nam tại Đức, ra lịnh truy tố các tướng tá đã tham dự vào cuộc bắt cóc ngu xuẩn này vì đã làm sụp đổ liên minh kinh tế Đức-Việt. Nó ngu xuẩn vì nó diệt một đối tác quan trọng là Đức, nó ngu xuẩn vì nó bắt một thằng gian mà làm khổ bao nhiêu người Việt lành đang sống tại Đức, làm khổ luôn cho tất cả các liên minh kinh tế sắp tới của một quốc gia gần một trăm triệu dân như Việt Nam, đang cần phải ra khỏi nghèo đói, lạc hậu càng sớm càng hay.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn áp đặt xảo thuật bắt nạn nhân của nó ngày ngày phải nhượng bộ đủ điều để được sống yên, để được giảm sức ép tới từ sự không chế, và ngày càng đi sâu vào bẫy của nó. Đây là hoạt cảnh của đất nước Việt hiện nay, sau khi Tầu tặc chiếm biển đảo, rồi vẽ ra hình “lưỡi bò” mà không một đất nước nào trong Liên Hiệp Quốc ra mặt ủng hộ Tầu. Tiếp theo nó liên tục xây dựng các căn cứ quân sự để ăn hiếp tất cả các nước láng giềng, nhất là dọa nạt Việt Nam. Mỗi lần chúng dọa nạt là chúng thành công với “chiến thuật cúi đầu đu dây một thân, một mình của ĐCSVN, mặc cho Tầu tặc đu dây trên đầu của mình, khi chúng cấm đoán ĐCSVN cho phép các công ty ngoại quốc tới khai thác dầu trên thềm lục địa của Việt Nam. Tính toán chiến thuật có ý đồ thâm hiểm của Tầu tặc là âm thầm “sĩ nhục hóa” lãnh đạo ĐCSVN để “điếm nhục hóa” ĐCSVN trên chính trường quốc tế, nhất là trước mặt các nước láng giềng trong khu vực châu Á thái bình dương, từ Lào cho tới Campuchia, từ Nhật Bản cho tới tận Úc.
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn áp đặt hai chuyện lên nạn nhân của nó: thứ nhất địa vị chính là địa điểm của kẻ khống chế trên một không gian vừa cao, vừa rộng; thứ hai là nạn nhân chỉ là một điểm nhỏ, được định vị như vừa nhược, vừa tiểu trong không gian mà nó điều hành. Chính kẻ khống chế sẽ giới thiệu không gian của nó mà nạn nhân của nó chỉ là công cụ thấp và một phần tử bé trong phần trình bày không gian đó. Đây là thảm họa trá hình các hiệp ước, các ký kết giữa Tập Cận Bình chủ trì và Nguyễn Phú Trọng phải tung hô trong các chương trình hợp tác đào tạo cán bộ chung, mà ai cũng biết là cán bộ Việt Nam phải qua Tầu để học, và cán bộ Tầu tới Việt Nam để chỉ tay năm ngón. Chính Tầu tặc cướp nước Việt. Tập Cận Bình hiên ngang tới quốc hội Việt Nam tuyên bố luận điệu của nó, mà ta không thấy lãnh đạo ĐCSVN tuyên bố gì về can đảm chủ quyền, dũng khí độc lập, cường lực dân tộc quyết bảo vệ quê hương. Cái hèn là anh của cái nhục, là cha đẻ của cái điếm trị!
– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn đưa ra hai loại xếp hạng do nó đặt ra: thứ nhất ai bán nước thì được gần kề quyền quyết định của nó như một đặc ân; thứ hai phải xem và hưởng sự kề cận này như một đặc quyền, đặc lợi, mà nhóm theo Tầu thì được “chống lưng” bởi Tầu, thì phải dẹp các nhóm không có Tầu “đỡ lưng” để còn đường sống: vì chỉ ĐCSTQ mới cứu được ĐCSVN! Chung quy thì không có một dân tộc nào, một quốc gia nào muốn ĐCSVN tồn tại và sống sót, nhất là dân tộc Việt Nam. Đây là một thảm họa sâu không đáy của ĐCSVN, mất phương hướng trong độc lập suy nghĩ, mất định hướng trong tự chủ tư duy, trong bối cảnh không có liên minh quốc tế trung tín, vì muốn trung tín với các đối tác thì phải nhân tính trong nhân đạo như họ qua nhân quyền dựa trên dân chủ, tự do trong đa nguyên. Cho nên, nhân dân thấy rất rõ bi kịch này của ĐCSVN: “theo Tầu thì mất nước, mà theo dân chủ thì mất đảng”.
***
Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các bạn có thể tìm hiểu thêm các lập luận qua nghiên cứu của VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa) qua www.facebook.com/vungkhaluan/
____
Mời đọc lại các bài khác của tác giả: Thư gởi tuổi trẻ của Việt tộc — Thư gởi các đảng viên của ĐCSVN: Trả lại thẻ đảng để nhận lại nhân phẩm Việt! — Thư gởi các ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN — Thư gởi các đại biểu Quốc hội: Cúi đầu bấm nút, rồi cúi đầu quỳ gối! — Thư gởi các Bộ trưởng của chính phủ: Chạy chức hay chạy dân? — Thư gởi các nhà lãnh đạo tương lai của Việt tộc: Lãnh đạo nhận nhân lý, nhập nhân trí — Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 1)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.