Con đường dân chủ thực tiễn cho Việt Nam (phần 1&2)
Chánh Nguyễn
24-6-2018
Có được một đời sống ấm no, không sợ hãi trong một xã hội phát triển ổn định là nguyện vọng của mọi dân tộc trên thế giới. Tất cả những diễn biến lịch sử, những phát triển kinh tế, xã hội, và những khám phá khoa học đều đưa đến một kết luận chính trị chung. Chỉ có thể chế dân chủ với một hệ thống chính phủ mà quyền lực của người cầm quyền đương thời bị giới hạn, kiểm soát theo những nguyên tắc dân chủ mới có thể đáp ứng được nguyện vọng của xã hội một cách dài lâu. Chỉ có một chính quyền được dân bầu lên, bị dân kiểm soát, do dân thay đổi thì mới giữ được bản chất là chính quyền của dân và vì dân.
Sự ưu việt của thể chế dân chủ không còn là một đề tài trong những cuộc tranh luận nghiêm túc ngày nay. Ngay chính độc tài cũng công nhận, cũng phô bày “dân chủ” như một món đồ giả. Giả vụng về, trắng trợn: Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên. Giả mập mờ, lấp liếm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản. Thế nhưng những cải cách để đưa đến một thể chế dân chủ ở Việt Nam, nếu có, thì vẫn rất chậm, rất miễn cưỡng.
Chính quyền đương thời nào cũng có động lực củng cố và triến khai quyền lực của mình. Khi nền tảng dân chủ chưa có thì chính quyền sẽ chống lại, tìm cách triệt hạ mọi xu hướng đối lập, ngay cả chém giết khi họ thấy cần. Đài Loan và Nam Hàn đều trải qua giai đoạn này dưới thời Tưởng Giới Thạch và Phát Chính Hy (cả hai đều chống cộng). Vấn đề không phải là chủ thuyết hay nhận thức mà là bản chất tự nhiên. Chính quyền Việt Nam đương thời, dân tộc Việt, xã hội Việt cũng không là ngoại lệ.
Trong nước đã xuất hiện một số người chống lại chính quyền hay chính sách của chính quyền. Nhưng nhiều người vẫn ta thán rằng chưa có phong trào và nhân vật đối lập nào có được sự ủng hộ sâu rộng của quần chúng. Một quan điểm đang thịnh hành trong số những người chống chính quyền trên mạng là quá nhiều người Việt chưa đủ trí tuệ để nhận ra tội ác của chế độ, chưa đủ dũng khí để chống lại chính quyền, và vô cảm truớc những tệ nạn xã hội mà nhà nước phải chịu trách nhiệm. Một dân tộc Việt ngu, hèn, và trơ là lý do họ thường nêu ra để giải thích sự tham gia tương đối tẻ nhạt của người dân trong phong trào đấu tranh cho dân chủ.
Sự mâu thuẩn lớn trong quan điểm này là tư duy độc tài – tự đặt mình lên trên để nhìn xuống và miệt thị số đông trái ý mình – của một số người đang lớn tiếng hô hào dân chủ. Có thể nghi ngờ họ không hiểu dân chủ thật sự là gì. Thái độ của họ không tạo ra sự tin tưởng rằng nếu được quần chúng ủng hộ thì họ sẽ không đi vào vết xe đổ của Mohamed Morsi. (Được dân Ai Cập bầu lên sau khi chế độ độc tài của Hosni Mubarak sụp đổ, Morsi và đảng Huynh Đệ Hồi Giáo đã nhanh chóng tập trung quyền lực chống lại mọi hoạt đông dân chủ.) Dù vô tình, chính họ đã là một dẫn chứng hùng hồn cho sự ngụy biện của chính quyền rằng đa đảng, đa nguyên chỉ đưa đến loạn lạc. Không có gì lạ khi họ không được đa số người Việt trong nước hổ trợ.
Một số Đảng viên, cựu Đảng viên lão thành cũng đã nhận ra sự cần thiết của cải cách dân chủ. Nhưng những lời kêu gọi cải cách của họ vẫn chưa và có lẽ cũng sẽ không có hiệu lực gì. Họ không có quyền, không còn nắm những chức vụ quan trọng. Ảnh hưởng của họ, nếu có, chỉ trên bình diện tư duy, tinh thần. Nhưng chính quyền đương thời chống những hoạt động dân chủ không phải vì thiếu suy nghĩ, cần được thức tĩnh mà chỉ vì sự bám víu quyền lợi, một bản chất cố hữu của con người. Những nhân vật như George Washington và Nelson Mandela đều là ngoại lệ, hiếm có. Khách quan mà suy luận thì cái xác suất trong giới lãnh đạo của Việt Nam hiện nay có người đủ quyền và đủ lòng để tiến hành cải cách như Mikhail Gorbachev ở Liên Xô trước đây là rất thấp.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả những kiến nghị, tâm thư, đề xuất… của những người mong có được một cải cách thể chế thật sự đều đã không đi đến đâu. Ủng hộ dân chủ bằng phương pháp đưa thư, đệ đơn này không những đã không có hiệu quả thực tế mà lại còn có vấn đề về khía cạnh tư tưởng. Có thể nói những người chọn con đường này đã mặc nhiên chấp nhận chính quyền là một thực thể trên dân, có tư cách ban phát cho dân. Dù họ là người có lòng yêu nước, thương dân thì đây vẫn là tư duy lạc hậu của thời phong kiến, hoàn toàn trái ngược với lý tưởng dân chủ.
Có lẽ vì nhận thấy sự quan trọng của tư duy và phương pháp trong cuộc đấu tranh chống độc tài, một số người đã cho rằng cần phải có một đội ngũ trí thức ưu tú để hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi dân chủ. Thành phần trí thức đi tiên phong này có thể sẽ được đào tạo, học hỏi ở nước ngoài rồi về nước lãnh đạo quần chúng. Họ sẽ là những người vững vàng với lý tưởng, không ngại gian khổ, hy sinh. Sách lược này không phải là mới, đã được áp dụng thành công bởi Hồ Chí Minh cùng các đồng chí của ông để chống lại chế độ thực dân Pháp. Nhưng trong thực tế ngày hôm nay thì sách lược này không thể thực hiện được.
Câu hỏi quan trọng là những người trí thức này sẽ nói gì, sẽ làm gì để được quần chúng tín nhiệm, tự nguyện đi theo cho họ hướng dẫn, lãnh đạo. Họ sẽ nói gì, làm gì để người dân chịu gánh thêm gian khổ, có thể bị tù đày và hy sinh mà không sợ cảnh “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”? Ngoài trường hợp không thực tiễn là có siêu nhân xuất hiện, câu trả lời khách quan sẽ là gáo nước lạnh tạt vào giấc mơ tranh đấu dân chủ theo sách lược này.
Hơn nữa, khác với những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước, đây không phải là một cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Tất cả những liên hệ đến thế giới bên ngoài sẽ bị chính quyền đương thời tuyên truyền là tay sai của ngoại bang. “Thế lực thù địch”, một khái niệm mơ hồ mà chính quyền vẫn dùng để biện minh cho sự đàn áp những hoạt động dân chủ, đột nhiên sẽ hết mơ hồ. Những người trí thức này sẽ bị chận bắt trước khi họ có cơ hội lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng. Đây là một sách lược tranh đấu dân chủ vô kế khả thi nếu người lãnh đạo phải là “trí thức ưu tú” thuộc một trường phái nhất định.
Những diễn biến chung quanh vụ Trung Quốc kéo giàn khoan xâm phạm lãnh hải Việt Nam vào tháng Năm vừa qua ( tháng 5/2014) đã làm rõ nét hịện trạng giới hạn cũng như một con đường đấu tranh dân chủ có hiệu quả trong tương lai. Phản ứng và thái độ của quần chúng từ những người cành sát biển, phóng viên, đến ngư dân, sinh viên, người già, giới trẻ… chứng tỏ rất nhiều người Việt, có thể là đa số, không hèn và vô cảm, không thờ ơ với vận nước khi có một mục tiêu rõ rệt như chống ngoại xâm. Rất nhiều người đã nhận định chính xác rằng phải có cải cách thể chế mới có thể bảo vệ được chủ quyền lâu dài. Thái độ bí ẩn và phản ứng khó hiểu của chính quyền trong vụ này chứng tỏ rằng đặt tin tưởng vào một chế độ độc tài trong việc bảo vệ chủ quyền chung của đất nước cũng nguy hiểm như tin rằng họ sẽ tạo ra một xã hội chung ngày càng giàu mạnh hơn. Thế nhưng khi câu hỏi ai, tổ chức nào sẽ thay thế nhóm lãnh đạo và Đảng Cộng Sản Việt Nam đuợc đặt ra trên mạng thì những người kêu gọi chống chính quyền đã không có câu trả lời thoả đáng. Phản ứng của họ gây ra ấn tượng là chính họ đang bị bế tắc trong tư duy và trong sự vận động đa đảng, đa nguyên.
Không thể gạt qua câu hỏi này bằng cách nghi ngờ động lực và trình độ của người hỏi như nhiều người vẫn làm. Bất kể người hỏi là ai, đây là một câu hỏi chính đáng cả trên nguyên tắc và trong thực tế đấu tranh dân chủ. Một câu hỏi quan trọng đòi hỏi câu trả lời rõ ràng, nghiêm túc.
Trước hết, đây là một câu hỏi thực tế về thực lực đối kháng. Đưa ra một viễn ảnh cụ thể để chứng tỏ sẽ có đủ đối trọng là một việc làm cần thiết nếu muốn được quần chúng tin theo. Cũng là một việc làm vô vọng. Dù muốn hay không, đại dìện duy nhất cho nước Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc hôm nay là nhà cầm quyền đương thời, một chính quyền đã có quan hệ ngoại giao chính thức với các quốc gia lớn. Không một nước dân chủ nào sẽ nhảy vào hổ trợ vũ lực chống chính quyền đó. Ngoại lệ duy nhất, trên nguyên tắc, là khi có nội loạn, nội chiến gây ra quá nhiều chết chóc cho dân lành. (Thực tế thì vẫn rất khó như phản ứng của Anh và Mỹ với tay độc tài Assad ở Syria đã chứng tỏ.) Thế là cách duy nhất để khả dĩ có đủ đối trọng lật đổ chính quyền vẫn phải là sự ủng hộ đông đảo của quần chúng. Nhưng những người kêu gọi cách mạng, đấu tranh lật đổ chính quyền lại không có sự ủng hộ này. Họ vẫn không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn tạo ra bởi những tư tưởng lỗi thời, không thích hợp với thực tế ngày nay.
“Nhân dân vùng lên” là một câu khẩu hiệu, không phải là đường lối chính trị. “Dân hèn, ngu, và trơ đông như quân Nguyên” là một biện minh cho sự thất bại chính trị, không phải là một nhận định hữu ích thực tiễn.
Tạo nên một cuộc cách mạng quần chúng để lật đổ chế độ hiện hành chỉ là một ảo tưởng vì hai lý do cơ bản. Thứ nhất là khi không thấy có đối trọng, không thấy có hy vọng thành công, ta thường chọn con đường để có được những nhu cầu thực tế trước mắt theo bản năng sinh tồn. Người mà nhu cầu thiết yếu của họ bị đe doa sẽ có khuynh hướng vùng lên, liều chết kháng cự, nhưng trong thực tế hiện nay thì tỉ lệ của những người như thế không đủ để làm cách mạng.
Lý do thứ hai là sự tàn độc không phải là mục đích, là nguyện vọng của nhà cầm quyền độc tài hiện nay ở Việt Nam. Nó chỉ là phương tiện để giữ vững độc quyền, đặc lợi. Chính quyền sẽ thắt nới tùy hoàn cảnh để vừa giữ vững quyền lợi vừa tránh nạn “cùng tắc biến”. Họ đã thành công và không có dấu hiệu gì là họ sẽ thất bại trong tương lai gần như nhiều người vẫn hy vọng.
Hô hào quần chúng xuống đường đối kháng chính quyền và miệt thị họ ngu, hèn khi họ không đáp ứng là việc làm vô ích, phi dân chủ và gây phản cảm, nhất là từ những người đang được sống ngoài vòng cương toả của chế độ độc tài.
Thỉnh nguyện không được, vùng lên lại chẳng có mấy ai. Tiến trình dân chủ sẽ như thế nào?
Câu hỏi “Ai sẽ thay Đảng…?” chính là một cơ hội để những người trí thức chống độc tài khẳng định lại bản chất và mục đích của cuộc tranh đấu cho dân chủ nhằm thu hút sự ủng hộ của quần chúng. Trên nguyên tắc, người đấu tranh dân chủ đúng nghĩa không tranh đấu cho quyền lãnh đạo của một người hay một đảng. Người đấu tranh dân chủ đúng nghĩa tranh đấu cho cái quyền được chọn lựa: Mỗi người dân một lá phiếu. Đấu tranh để có quyền chọn lựa như thế là mới chính là đấu tranh dân chủ. Không phải mọi phong trào chống độc tài đều là đấu tranh dân chủ. Đặt sự chọn lựa đảng phái, chủ thuyết, người lãnh đạo… trước khi có quyền chọn lựa sẽ biến cuộc đấu tranh này thành một sự xung đột giữa những thế lực khác nhau, dễ khiến người dân nghi ngờ hơn là tin cậy.
Cuộc đấu tranh dân chủ chân chính là cuộc đấu tranh để mọi người dân thật sự có quyền chọn lựa. Chọn lựa cụ thể như thế nào thì tùy dân, là quyền của dân. Theo tinh thần bất hủ của Voltaire (khi ông nói về quyền tự do ngôn luận), người đấu tranh dân chủ chân chính hẳn phải có tâm niệm: Dù tôi không đồng ý với sự chọn lựa của họ, tôi vẫn tranh đấu đến cùng cho quyền được chọn lựa của họ. Người đấu tranh dân chủ chân chính sẽ chống lại mọi khuynh hướng giới hạn quyền chọn lựa của người dân. Ngoại trừ độc tài đương quyền, không ai chống lại mục tiêu và con người đấu tranh như thế: Đấu tranh bất bạo động cho quyền được chọn lựa của mỗi người, của mọi người, bất chấp đảng phái và chính kiến.
Chỉ bằng cách khẳng định thật rõ ràng rằng mục tiêu đấu tranh là cái quyền được chọn lựa của mỗi người, của mọi người mới có thể thu hút được sự hổ trợ của đông đảo quần chúng. Từ những người vẫn nghĩ rằng Đảng CSVN đã có công trong sự giành độc lập, thống nhất đất nước cho đến những người vẫn tin rằng CS là một đại họa của dân tộc, tất cả (trừ độc tài đương quyền) đều muốn có được cái quyền ấy. Đây là mục tiêu quan trọng tối hậu. Bên cạnh nó, những tranh chấp về các diễn biến lịch sử, đúng sai của những chủ thuyết chính trị, công tội của những nhân vật lịch sử v.v… chỉ là những vấn đề để nghiên cứu và tranh luận khi trà dư tửu hậu, khi đã có được một thể chế dân chủ.
Dĩ nhiên là độc tài đương quyền sẽ tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để trấn áp tất cả những hoạt động đấu tranh dân chủ. Họ sẽ đưa ra mọi lý lẽ để phân hoá, để chứng tỏ cuộc đấu tranh dân chủ chỉ là một sự tranh giành quyền lợi hay có ý đồ làm loạn. Đấu tranh thành công cần phải có đủ một số yếu tố. Quan trọng nhất là làm thế nào để có thể tạo được sự ủng hộ đông đảo, dù âm thầm, của quần chúng. Lý tưởng dân chủ – cái quyền được chọn lựa của mỗi người – tự nó chỉ là một khái niệm trừu tượng đối với những người phải quần quật, đầu tắt mặt tối để mưu sinh. Tư tưởng và phương pháp đấu tranh cụ thể để có được một tiến trình dân chủ thành công là nội dung của Phần II.
_____
Thế giới qua hơn nửa thế kỷ nay đã chứng tỏ rằng bất bạo động là phương pháp đấu tranh duy nhất thực sự hữu hiệu trong việc xây dựng nền tảng dân chủ. Có nhiều lý do để tránh mọi hình thức bạo động. Thực tiễn đơn giản nhất là khi chính quyền độc tài nắm hết mọi công cụ của bạo lực thì chiến thắng bằng bạo động là chuyện không tưởng. Hy vọng có được hổ trợ vũ lực từ bên ngoài trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam cũng hoang đường không kém. Chắc chắn không mấy ai nhân danh dân chủ mà lại cổ súy bạo động chống chính quyền. Nhưng đấu tranh bất bạo động hữu hiệu cần phải theo một số nguyên tắc mà hầu như ít ai chú ý.
Tranh chấp dưới bất cứ hình thức nào cũng nhằm tạo ra áp lực buộc đối phương phải nhượng bộ. Tranh đấu bạo động thì áp lực chính là quân sự. Trong những cuộc đình công bất bạo động ở xứ tự do thì áp lực chính là kinh tế. Tạo ra áp lực cho đối phương cũng như chống lại áp lực của đối phương đều đòi hỏi phải trả giá. Bên thua cuộc là bên không đủ sức trả cái giá cuộc đấu tranh đòi hỏi. Người đấu tranh dân chủ phải tự hỏi họ sẽ tạo ra được áp lực gì đối với chính quyền độc tài và sẽ phải trả giá như thế nào. Hô hào xuống đường khi không có câu trả lời thấu đáo thì chỉ là một hành động bồng bột khó đem lại kết quả như ý muốn.
Phong trào Occupy Wall Street dù đã lan rộng khắp các thành phố lớn ở Mỹ với sự tham dự và ủng hộ đông đảo của thanh niên vẫn không đi đến đâu vì không tạo ra áp lực gì (và cũng không có những đòi hỏi thực tiển). Ngược lại những cuộc biểu tình của Đảng Trà (Tea Party) đã có ảnh hưởng mạnh trên chính trường Mỹ vì áp lực của lá phiếu. Trong một nước toàn trị thì áp lực của lá phiếu, hay ý dân, là một điều vô nghĩa. Vì thế mà hành động xuống đường biểu tình tự nó không phải là một hình thức tranh đấu dân chủ hữu hiệu trong mọi thời điểm. Điển hình là sự bất lực của thanh niên Hồng Kông trước những áp đặt của Bắc Kinh. Dù họ có ý thức chính trị cao và đã chuẩn bị công phu nhưng vẫn không thể tạo ra áp lực đủ mạnh để buộc Bắc Kinh phải nhượng bộ.
Bất phục tùng dân sự (civil disobedience) có thể như cây gậy thọc vào cái bánh xe của chính quyền độc tài. Gậy đủ lớn thì có áp lực đủ mạnh để làm hỏng bánh xe. Nhưng trong thực tế thì rất khó có thể hô hào người dân tạo ra một phong trào bất phục tùng dân sự chống lại chính quyền độc tài. Cái giá của hành động bất phục tùng là tù đày hay ngay cả sinh mạng. Một cái giá quá cao mà bất cứ ở đâu, thời nào cũng chỉ có một thiểu số nhỏ dám chấp nhận.
Xuống đường biểu tình, đình công, bất phục tùng dân sự để tạo ra áp lực của cử tri, áp lực kinh tế, áp lực xã hội, là những hình thức tranh đấu bất bạo động hữu hiệu với một chính quyền có lương tâm. Nhưng dưới chế độ độc tài thì những hình thức tranh đấu này sẽ không tạo ra áp lực gì và do đó sẽ thất bại như ở Hồng Kông (không đạt được mục đích là có qưyền bầu cử thật sự) nếu những người tranh đấu dân chủ chỉ dựa vào chúng.
Chà đạp nhân quyền của người đấu tranh bất bạo động, chính quyền độc tài cũng phải chịu sự phê phán của dư luận quốc tế, sự tẩy chay của những nước văn minh. Nhưng lịch sử thế giới đã chứng tỏ rằng đây là một cái giá mà mọi chế độ toàn trị sẳn sàng chấp nhận khi họ thấy cần. Cuộc thảm sát ở Thiên An Môn năm 1989 là một ví dụ đẫm máu hùng hồn. Vì vậy mà đấu tranh như thế thì phần chủ động sẽ luôn luôn nằm trong tay chính quyền, khó mà thành công được.
Áp lực duy nhất sự đấu tranh bất bạo động có thể tạo ra được trong một chế độ độc tài là một áp lực mà thoáng nghe thì có vẻ mơ hồ nhưng lại là một áp lực hữu hiệu nhất, mạnh nhất. Đó chính là áp lực của lương tâm. Lương tâm của ai? Lương tâm của người dân, lương tâm của xã hội, lương tâm của những viên chức, bộ đôi, công an trong bộ máy chính quyền. Rất có thể là lương tâm của chính những người đang cầm quyền sinh sát của chế độ. Vai trò của “lương tâm” trong cuộc đấu tranh dân chủ là một vấn đề rất tế nhị. Người đấu tranh dân chủ không thể ngây thơ, chủ quan, mà phải chấp nhận và suy tính rằng chính quyền độc tài vốn không có lương tâm, sẽ không từ một thủ đoạn nào để ngăn chặn quyền dân chủ. Nhưng đồng thời họ cũng phải thấy rõ rằng lương tâm của mỗi người, ngay cả những cá nhân trong guồng máy độc tài, cũng không bao giờ biến mất. Lương tâm con người, ngay cả những lương tâm bị che mờ vì lòng tham và thù hận, chính là đối tượng đế chiến thắng của những người đấu tranh dân chủ.
Một khi con người và xã hội cho rằng những chính sách, những biện pháp hiện hành của chính quyền là “vô lương tâm” thì cái chính quyền đó hoặc sẽ phải nhanh chóng thay đổi hoặc sẽ sụp đổ mà không cần cái giá của nhiều hy sinh xương máu. Khi người lính của chính quyền ngần ngừ tay súng, khi thượng cấp của anh ta trì hoãn lệnh bắn, khi những người có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của chính quyền không muốn tiếp tục công việc.. thì chỉ cần một diễn biến nhỏ cũng có thể nhanh chóng đưa đến một sự thay đổi chính trị sâu rộng. Rất có thể những tay lãnh đạo trong chính quyền độc tài cũng sẽ nhận ra sự tỉnh thức của lương tâm xã hội để tiến hành cải cách thật sự hòng tránh tai họa cho chính họ. Nhưng nếu không có một sự rung chuyển trong lương tâm của những thành viên trong xã hội, thì đấu tranh dân chủ sẽ khó mà thành công. Nếu không có áp lực đủ mạnh của lương tâm thì cái giá độc tài phải trả khi ra tay chém giết là rất thấp so với cái giá xương máu của người đấu tranh dân chủ.
Trong cuộc đấu tranh dân chủ này, không có thành trì để chiếm đóng, không thể đánh bại binh đoàn của độc tài, chỉ có thể xoay chuyển được lương tâm của xã hội. Vì thế mà đây không phải là cuộc tranh đấu chống quân thù. Nhưng về phía chính quyền thì càng tạo ra được ấn tượng của một cuộc chống phá bởi những “thế lực thù địch” thì càng dễ khiến xã hội thờ ơ với phong trào đấu tranh dân chủ. Có thể vì không nhận ra bản chất và mục tiêu thực tế của cuộc đấu tranh, nhiều người vẫn dùng những ngôn từ và hình thức sáo mòn để đả kích chính quyền, trong đó có nhiều phần tử họ cần phải thuyết phục và có thể thuyết phục được, như một kẻ thù để tiêu diệt. Dù vô tình, chính họ đang tiếp tay cản trở tiến trình dân chủ của đất nước với cái tư duy, ngôn ngữ, và hành động đã trở thành thói quen từ những cuộc đấu tranh bằng vũ lực của thời xưa.
Để thành công, cuộc đấu tranh dân chủ cho Việt Nam hôm nay phải có bản chất của một cuộc đấu tranh về tư tưởng, đấu tranh để thuyết phục từng cá nhân trong xã hội rằng cuộc đời của họ, tương lai con cháu họ, tương lai đất nước sẽ tốt đẹp hơn với những đòi hỏi cụ thể của những người đang dấn thân tranh đấu. Tùy hoàn cảnh, quá khứ, và tâm hồn, có người đã chọn con đường đấu tranh dân chủ, có người sẽ cảm nhận và ủng hộ, dù âm thầm, và cũng sẽ có người, trong số những người đang được hưởng độc quyền và đặc lợi, quyết chống mọi tiến triển dân chủ. Cho đến khi mà đa số người dân hiểu và đồng tình ủng hộ những đòi hỏi cụ thể của phong trào dân chủ thì trọng tâm của cuộc tranh đấu vẫn phải là sự thuyết phục quần chúng chứ không phải tổ chức những hoạt động kêu gọi chống chính quyền. (Chính quyền sẽ có những vi phạm đòi hỏi một sự phản đối mạnh như một cuộc biểu tình chẳng hạn. Nhưng người xuống đường cần phải cân nhắc tùy theo vụ việc để thuyết phục thêm được quần chúng thay vì để lọt vào cái bẩy “gây rối loạn, phá hoại đời sống” của chính quyền.)
Ngày mà bà con, bạn bè của những người dấn thân cho dân chủ không hỏi tại sao làm thế, ngày mà họ ủng hộ cuộc đấu tranh, dù chỉ là ngấm ngầm trong tư tưởng, ngày mà đa số những người chọn đứng bên lề chỉ vì họ sợ, chỉ vì họ không thể hay không dám trả cái giá chống độc tài chứ không phải vì bất đồng tình thì đó là ngày mà thành trì và súng đạn của chính quyền độc tài sẽ trở thành vô hiệu dù bên ngoài vẫn rất hoành tráng. Đây là lý do tại sao những cuộc đấu tranh dân chủ bất bạo động thành công đều có vẻ như đã bùng phát đột ngột và nhanh chóng đạt được kết quả. Thật ra đó chỉ giai đoạn kết thúc của một quá trình xoay chuyển lương tâm của xã hội đã thành công. Vấn đề là làm thế nào để thành công.
Trước hết ta hãy điểm qua những việc làm không có hiệu quả, nếu không nói là phản tác dụng trong việc thuyết phục đa số quần chúng để có được một đất nước dân chủ. Một trở ngại lớn là sự chia rẽ vì lịch sử, hay đúng hơn là vì sự đấu tố lịch sử theo cảm tính, của những người đang cùng kêu gọi dân chủ. Lịch sử Việt Nam dĩ nhiên là phức tạp, bị bóp méo, viết lại nhiều hơn lịch sử của những nước tự do. Tìm hiểu sự thật lịch sử, ngay cả ở xứ tự do, vẫn là một việc làm đòi hỏi tinh thần khách quan và trình độ nghiêm túc của các sử gia chuyên nghiệp. Khi những người không thể phân biệt đâu là sử kiện, đâu là tin đồn, không thể đánh giá được sự khả tín và biện minh của nhân chứng… mà lại hùng hục lên án hay tung hô theo cảm tính thì sẽ không thuyết phục được ai. Đây là một hành động có thể đem lại hứng thú cho những người vốn có cùng niềm tin nhưng vô dụng cho tiến trình dân chủ. Dù lịch sử có như thế nào thì con đường cần đi trước mắt vẫn không thay đổi; và nếu những tệ nạn hiện thời không đủ để rung chuyển lòng người thì sự thật lịch sử cũng chỉ là chuyện cổ tích.
Sự xung khắc không đúng lúc giữa những người cùng đấu tranh dân chủ cũng là một hành động phản tác dụng khác. Dân chủ – quyền được lựa chọn của mọi người, mỗi người dân một lá phiếu – không đòi hỏi người ta phải có ý kiến cụ thể như thế nào, mà chỉ đòi hỏi sự chấp nhận quyền chọn lựa của người khác. Đây chính là mẫu số chung cho tất cả mọi hoạt động đấu tranh dân chủ. Sự bất đồng ý kiến trong những vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày là một điều không thể tránh khỏi, và cũng chính là một yếu tố làm xã hội tiến bộ với thời gian. Những người đấu tranh dân chủ thường không có, không cần có (và cũng không nên có) cùng chính kiến ngoài lý tưởng dân chủ, đặt quyền chọn lựa của dân trên hết. Khi chưa có được quyền chọn lựa thì những tranh chấp khác chỉ làm phân tán nổ lực đấu tranh đòi quyền dân chủ. Những khác biệt này, dù quan trọng, vẫn là những vấn đề phải để hạ hồi phân giải, một khi đã có được thể chế dân chủ. Đây là điều hiển nhiên đến nhàm trên lý thuyết, nhưng thực tế thì bản chất con người vẫn có những đố kỵ, những tham vọng khiến ta khó mà bỏ qua những khác biệt về quan điểm để cùng sát cánh. Rất may là thực tế cũng không đòi hỏi mọi người mà chỉ cần một vài người có uy tín, đại diện tinh thần, của những nhóm tranh đấu dân chủ khác nhau có đủ tâm trí để nói lên và làm theo nguyên tắc thỏa hiệp dân chủ này.
Mắng chửi Cộng Sản một cách chung chung cũng phản tác dụng. Gốc rễ chỉ là thể chế và bản chất con người. “Người Cộng Sản” đã là một khái niệm vô nghĩa. Trong hàng ngũ Đảng viên và lãnh đạo hôm nay có những kẻ đã bòn rút, trấn lột dân, những kẻ mà người Cộng Sản 70 năm trước hẳn sẽ giết không tha. Và cũng trong hàng ngũ của những Đảng viên hôm nay, những kẻ được hưởng quyền lợi của chế độ toàn trị lại có những người đứng lên, chịu trả giá tù đày, để đòi cải cách, quyền dân chủ. Những người dùng một cái nhãn hiệu đã lỗi thời để chửi rủa chung chung chỉ biểu lộ tâm trí cạn cợt, chỉ có thể khích động hận thù, hoàn toàn vô ích trong cuộc đấu tranh bất bạo động. Chính những người họ đang miệt thị, những cá nhân trong guồng máy chính quyền, là người mà lương tâm sẽ quyết định tương lai dân chủ của Việt Nam.
Một đặc điểm của đấu tranh bất bạo động, đấu tranh tư tưởng là sức mạnh của phong trào tùy thuộc vào sự minh bạch, công khai của những người tranh đấu. Họ lên tiếng, họ chống đối đường hoàng dõng dạc cho nhân quyền, cho lợi ích của xã hội, cho công lý… Họ không hành sự lén lút, không tuyên truyền nặc danh. Trước những người như thế, đội ngũ an ninh chuyên điều tra, đối phó với những hoạt động chống đối bí mật sẽ trở thành vô dụng đến khôi hài, ngay cả đối với những người công an đang làm nhiệm vụ. Đây cũng là bước đầu để chuyển hoá tâm tư họ. Dù trong hoàn cảnh đối nghịch, ít người có thể nuôi lòng hận thù hay hằn học lâu dài khi đối phương rõ ràng là chống đối để cải thiện, để xây dựng, không chống đối để tiêu diệt hay đập phá.
Diễn biến Thiên An Môn 25 năm trước là một bài học đáng chú ý về khả năng thức tỉnh lương tâm của đấu tranh bất bạo động cũng như cái giá độc tài chịu trả để giữ vững chế độ. Trong bảy tuần biểu tình ôn hòa của sinh viên Bắc Kinh, người dân Bắc Kinh ngày càng ủng hộ họ. Những sinh viên này chẳng nguyền rủa Mao Trạch Đông, chửi Đảng, mà chỉ đòi tự do ngôn luận, thêm quyền dân chủ, dẹp tham nhũng… Ai có lương tâm cũng phải đồng tình, bất kể chính kiến. Đặng Tiểu Bình và đồng bọn không dám tin vào sự trung thành của những binh đoàn đang trấn thủ Bắc Kinh, những người lính đã thấy, đã nghe những sinh viên này trong mấy tuần qua. Lãnh đạo Bắc Kinh đã hoán chuyển những binh đoàn ở xa về để trấn áp. Những người lính này thật lòng nghĩ rắng nhờ có Đảng và lãnh tụ mà đời sống họ khá hơn, nước Trung Hoa được ngẩn mặt với thế giới. Đối với họ những thanh niên đang tranh đấu chỉ là quân “phản động”. Vì thế họ đã không ngần ngại giày xéo khi có lệnh. Hoàn cảnh Việt Nam và thế giới hiện nay thuận tiện hơn nhiều cho cuộc đấu tranh tư tưởng để xoay chuyển lương tâm một cách rộng lớn.
Chính quyền Việt Nam ngày nay có lẽ cũng không thua kém gì Đặng Tiểu Bình và đồng bọn về thủ đoạn chống dân chủ. Những người đấu tranh có nhiều ảnh hưởng chắc chắn phải trả giá. Họ đã và sẽ phải chịu cảnh tù đày. Nhưng tiếng nói của họ dần dà sẽ có được sự ủng hộ, dù là thầm lặng lúc đầu, của đa số quần chúng. Một chính quyền có lương tâm không thể có tù nhân lương tâm. Và những tù nhân lương tâm chính là tiếng chuông mạnh nhất để thức tỉnh lương tâm xã hội, lương tâm thế giới. Tiếng chuông của Nelson Mandela, Aung San Suu Kyi đã đem lại những thay đổi lớn cho nền dân chủ của nước họ (dù hiện vẫn có nhiều trở ngại). Những người chịu trả cái giá tù đày để nói lên điều cần nói, những người tù lương tâm, bao giờ cũng là nổi lo lớn nhất của độc tài. Chính quyền Việt Nam đã nghĩ ra được một giải pháp để tạm thời đối phó. Họ sẽ “xuất khẩu” những ai đã tạo ra ảnh hưởng lớn với lòng can trường dám chấp nhận ngục tù. Tiếng nói của người sống trong một xã hội phồn thịnh, tự do sẽ không có cái hùng tráng đầy sức thuyết phục của tiếng nói bị chận bóp vọng ra từ trong tù. Nhưng thủ đoạn này sẽ không thể làm ngưng tiếng chuông đánh thức lương tâm vì Việt Nam xưa nay vẫn có những người can trường chịu ngồi tù cho lý tưởng.
Mức độ lên tiếng kêu gọi cải cách dân chủ tùy vào tâm tư và hoàn cảnh của mỗi người, tùy vào cái giá họ sẳn sàng chịu trả để có tiếng nói công khai. Nhưng dù ít hay nhiều, những tiếng nói ấy, nếu tránh được những tranh cãi luẩn quẩn đưa ra ở trên, sẽ có tác dụng thay đổi cách nhìn và xoay chuyển lương tâm của xã hội. Trong cuộc tranh đấu này, “chiến trận” không chỉ là lúc đối đầu với công an, an ninh mà chính là trong những lúc đối thoại, tâm tình với bà con, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm… Dù muốn hay không, tác phong, nhân cách, tâm hồn, tính tình của những người đấu tranh dân chủ đều là những yếu tố thuyết phục (hay gây phản cảm) cho phong trào dân chủ. Để có thể “chiến thắng”, người đấu tranh dân chủ phải tránh gây ra cảm giác, dù đúng hay sai, là họ chống đối chính quyền vì hận thù hay vì tham vọng cá nhân hơn là vì quyền lợi chung của xã hội.
Người chọn dấn thân trên con đường đấu tranh dân chủ lúc nào cũng phải có một mục tiêu, một đòi hỏi cụ thể cho quyền lợi trước mắt của người dân. Dân chủ – quyền chọn lựa của mọi người – tuy là mục đích tối hậu nhưng cũng là một khái niệm trừu tượng đối với đa số dân. Khi một số đông cảm thấy là đời sống kinh tế đã có nhiều tiến bộ so với mười, hai mươi, ba mươi năm trước thì những lý luận trừu tượng khó làm rung động lòng họ. Những người phê phán chống đối mà không đưa ra được một giải pháp thực tiển, nhất là với ngôn từ và thái độ hằn học, sẽ dễ dàng bị dân coi thường. Tuy chế độ toàn trị là gốc rễ của hầu hết những tệ nạn trong xã hội, thực tế đấu tranh dân chủ hằng ngày cần phải tập trung vào những đòi hỏi thực tiển mà mọi người đều thấy rõ sự lợi ích của chúng. Qua quá trình đấu tranh đòi hỏi những điều này, và phản ứng của chính quyền, người dân sẽ cảm nhận cái giá trị và sự cần thiết của thể chế dân chủ cũng như bản chất tệ hại của mọi chính quyền toàn trị. Để minh họa, ta hãy tưởng tượng một phong trào có thể xảy ra trong thực tế như thế.
Mọi người, dân cũng như quan, đều lên tiếng chống tham nhũng. Hãy phát động một phong trào bài trừ tham nhũng, làm công khai những thu nhập của các quan lớn. Đây hẳn là một đòi hỏi rất hợp lý và có ích lợi thực tiển. Thu nhập minh bạch của quan chức sẽ tạo thêm lòng tin cho dân, làm quan thêm rạng rỡ – vàng thật không sợ lửa – và bớt gánh nặng cho dân, cho công quỹ vì tệ nạn đục khoét, hối lộ. Không ai có thể chống đối đòi hỏi này trên nguyên tắc. Trong thực tế thì đây là điều mà chính quyền độc tài, lũng đoạn bởi tham quan, sẽ kiên quyết chống. Và đây cũng chính là dip để người dân cảm nhận vai trò của thể chế và ủng hộ, dù thầm lặng, những hoạt động dân chủ không bị ràng buộc bởi quá khứ, hay màu cờ, sắc áo. Đây chỉ là một ví dụ. Có nhiều điều cụ thể như thế, trực tiếp liên quan đến đời sống hằng ngày, trước mắt của người dân, những đòi hỏi không liên quan đến ý thức hệ hay quá khứ chính trị, có thể tạo được sự ủng hộ rộng lớn để đem đến những cải cách dân chủ thật sự.
Bạo hành của công an, hối lộ của chính quyền địa phương, những tổ chức làm ăn gây thiệt hại cho xã hội, luật lệ bất công, v.v… đều có thể là đề tài cho những phóng sự cụ thể, những nhận định chính trị, những đòi hỏi mà đa số dân và ngay cả những Đảng viên có lòng yêu nước đều ủng hộ như ta đã thấy. Nhưng thay vì chỉ đưa ra những lời chỉ trích chung chung hay những kiến nghị, cần phải có những phóng sự chất lượng với những chi tiết và nhân vật cụ thể để vạch trần bản chất vô liêm sĩ, một sự vô liêm sĩ phi chính trị, của những người dùng quyền thế để bòn rút và che đậy tội lỗi. Trước luật pháp, dù là luật pháp khập khiển hiện hành tại Việt Nam, thì đây vẫn là những điều phạm pháp và những tên tội phạm đòi hỏi phải có sự xử lý và trừng phạt thích đáng. Nhưng khi kẻ cướp lại vừa là quan tòa vừa là cảnh sát, hệ quả tất yếu của chính quyền toàn trị, thì cách trả lời thường thấy sẽ là sự trấn áp những phóng viên, những nhà báo nói lên sự thật và những người đòi công lý cụ thể cho xã hội. Người dân sẽ nhìn những tay gian tham này và bộ máy chính quyền phục vụ chúng với cặp mắt đầy khinh bỉ. Không có một biện minh chính trị nào, quá khứ lịch sử nào có thể che lấp được cái bản chất xấu xa của những kẻ đã bị thoái hoá vì quyền lực và dục vọng thấp hèn.
Trong xã hội hiện nay, chính quyền đã không còn có thể hoàn toàn khống chế đời sống kinh tế của mọi người được nữa. Sẽ có những phóng viên, nhà báo độc lập điều tra và phơi bày sự tham nhũng, những đổi chác hại nước, hại dân, những sự bạo hành, phạm pháp của nhiều đại quan. Chính quyền chỉ có thể đối phó bằng cách chà đạp nhân quyền của họ. Bố ráp, kết tội, tống giam những người có dũng khí tìm hiểu và nói lên sự thật, phơi bày cái ai cũng cho là xấu để cải thiện xã hội, thì không chỉ là một vi phạm nhân quyền trắng trợn mà bản chất còn là một sự vô liêm sĩ, bất luận chính kiến và thời đại, đáng khinh của bạo quyền. Những người anh dũng dám đứng mũi chịu sào này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của nhiều người, của cả thế giới, của ngay chính những người thấp cổ bé họng trong guồng máy toàn trị. Khi cai ngục đã có lòng kính trọng tù nhân thì thay đổi, cải cách thật sự chỉ còn là chuyện một sớm một chiều mà thôi. Bước đầu tiên có lẽ là chính quyền sẽ phải chấp nhận và tôn trọng quyền tự do ngôn luận, nền tảng của mọi hoạt động dân chủ. Chỉ cần một bước đầu như thế là rất có thể sẽ làm cả hệ thống toàn trị phải nghiên ngã.
Tập đoàn lãnh đạo Việt Nam hẳn cũng không phải toàn là những người u mê. Khi họ thấy lương tâm xã hội đã thay đổi, nền tảng toàn trị đã rạn nứt, rất có thể chính họ sẽ nhanh chóng tiến hành những cải cách cần thiết mà người dân đòi hỏi. Cuộc đấu tranh dân chủ như thế có nhiều triển vọng đem đến những thay đổi sâu xa và tốt đẹp về chính trị, thể chế, như từng xảy ra ở Đài Loan và Nam Hàn.
Đấu tranh như thế dĩ nhiên đòi hỏi phải có những người dấn thân, chịu trả cái giá cá nhân rất cao, nhưng lại không đòi hỏi quần chúng phải trả giá, không làm đời sống xã hội khó khăn hơn, dù tạm thời. Đấu tranh như thế tuy vẫn rất cam go nhưng có sức thuyết phục, dễ đánh thức lương tâm hơn tất cả những gào thét, nguyền rủa, hay kêu gọi người dân đứng lên lật đổ Đảng và chính quyền Cộng Sản như ta vẫn thường nghe thấy trong 40 năm qua. Đây chính là con đường đấu tranh dân chủ thực tiễn nhất. Thực tế hiện nay cũng có những lợi điểm cơ bản khiến ta có thể hy vọng vào một tiến trình dân chủ khả quan ở Việt Nam.
Người Việt không có những xâu xé lâu đời vì chủng tộc hay tôn giáo. Cùng một tiếng nói chung, giao thông, liên lạc đã không còn nhiều trở ngại về địa lý hay hành chánh, người Việt dễ có cùng chung những giá trị về chân, thiện, mỹ khi không còn bị ràng buộc bởi ý thức hệ và lòng hận thù. Từ trong lòng của chế độ, từ lớp người hoàn toàn trưởng thành trong sự giáo dục một chiều, cứng nhắc của chế độ vẫn xuất hiện những người với tài năng, khí phách và tâm hồn khiến hầu hết mọi người phải khâm phục. Bên cạnh họ hẳn phải còn rất nhiều người cũng băn khoăn, mong muốn có được một đất nước thịnh vượng. Ngay cả những người trong tập đoàn độc tài đang bị thao túng vì quyền lợi và tham vọng cá nhân cũng không thể phủ nhận sự thật hiển nhiên đến nhàm về vai trò cơ bản của pháp quyền và dân chủ. Tuy tệ nạn công lý rừng rú và nghị gật vẫn còn nhiều, Việt Nam cũng đã có những cơ sở, dù hiện thời chỉ là hình thức như phấn son tô điểm cho chế độ độc tài, để xây dựng một xã hội dân chủ. Ta đã thấy những người đấu tranh dân chủ hiên ngang tranh luận với công an, bất phục tùng trên căn bản pháp lý, và đưa đại quan ra tòa. Nếu ta có thể rũ bỏ được ý thức hệ, nhãn hiệu, và hận thù – những tàn dư, dù là tàn dư sâu đậm của quá khứ – để tập trung vào những thay đổi, đòi hỏi, chống đối để cải thiện xã hội, chính quyền, và đời sống chung thay vì đập phá thì chắc chắn sẽ có được những thành quả lớn trong tương lai gần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.