Dương Tường – Người chưa mãn hạn
25-2-2023
Năm 2002, tôi từng hỏi: “Thời kỳ ông tự cật vấn nhất là bao giờ?” Đáp: “Những năm 60, sau vụ Nhân Văn, Xét Lại”. “Câu trả lời chung là gì?”. “Phải có một thế giới khác. Thế giới này đang hỏng. Thế giới này phải làm lại”.
Cách “làm lại” thế giới đang hỏng hóc ấy của ông Dương Tường bề ngoài trông thật yếu mềm và buồn tẻ. Không có sự kịch tính trong hành động hay lập ngôn gây shock như nhiều người mong đợi ở những trí thức phản tỉnh. Câu hỏi cuối tôi dành cho ông: “Khi cực kỳ phẫn uất hay khinh bỉ, ông làm gì?” Ông trả lời: “Im lặng”.
Ông chọn sự im lặng, quay vào bên trong, miệt mài đắm đuối với chữ. Không đủ sức chống lại cái xấu thì làm ra cái đẹp và bảo vệ cái đẹp, bảo vệ đến hơi thở cuối cùng. Hơn 70 năm làm việc không ngừng nghỉ, ông đã để lại gần 60 đầu sách dịch bao gồm các tác giả tác phẩm nổi tiếng thế giới, 6 cuốn thơ, tiểu luận, cùng hàng chục chương trình do ông thiết kế để đưa văn hóa Việt lại gần với thế giới. Ông cũng là “nhà phát hành bí mật” của những tác phẩm văn chương phi chính thống chấn động một thời.
Thi sĩ Lê Đạt có một truyện ngắn “Hèn đại nhân”, kể về một nhà toán học từ chối cuộc đấu súng để hoàn tất công trình cuối cùng của cuộc đời. Với một thi sĩ mềm yếu đến mức một hạt mưa rơi nhầm chỗ cũng khiến ông bật khóc, thì đó là một lựa chọn dũng mãnh. Trong mắt tôi, ông Tường cũng là một đại nhân như vậy.
Có lần, sau đám tang một người bạn, ông bảo: “Chú luôn là người bị bỏ lại”.
Giờ thì ông đã bắt kịp bạn bè của mình rồi, trong chuyến tàu về cõi vô cùng.
Xin chia sẻ lại bài phỏng vấn từ hơn 20 năm trước (chưa từng đăng ở đâu) cho những ai yêu mến ông:
***
DƯƠNG TƯỜNG – NGƯỜI CHƯA MÃN HẠN
I- LÝ TƯỞNG VÀ PHẢN TỈNH
Phạm Tường Vân (PTV): Một điều hơi lạ là ông đọc sách rất nhiều, đọc “Phía tây không có gì lạ” lấy từ tay lính Pháp từ rất sớm. Điều đó không ngăn ông bước vào cuộc chiến với tư cách người cầm súng?
Dương Tường (DT): Cho đến nay, tôi vẫn nghĩ – và vẫn khẳng định – Kháng chiến chống Pháp là thời kỳ hoàng kim của cách mạng Việt Nam. Nếu được sống lại thời đó một lần nữa, tôi vẫn hành động như cũ nghĩa là bỏ nhà đi bộ đội. Suốt những năm đi lính, tuyệt nhiên không hề có ý định rời quân ngũ. Có lần ốm trên đường hành quân vào chiến dịch, tụt lai sau cả tuần, đã quyết đuổi theo đơn vị bằng được. Đi bộ hơn 300 cây số từ Đô Lương (Nghệ An) đến Hoà Bình để tìm đơn vị mà không mảy may có ý định rẽ về thăm nhà. Mỗi ngày chạy bộ gần 30 cây đuổi theo đơn vị, bị máy bay rượt suýt chết.
PTV: Đến khi nào thì ông phản tỉnh?
DT: Đến chiến tranh chống Mỹ. Cho đến giờ tôi vẫn thấy chiến tranh chống Pháp là một thời kỳ tuyệt đẹp. Người ta sống với nhau đầy tình người.
PTV: Nhân Văn là chuyến tàu chở sự vỡ mộng lớn nhất của văn nghệ sĩ – trí thức sau hoà bình lập lại. Nhóm xét lại: Vũ Thư Hiên, Dương Tường, Bùi Ngọc Tấn, Xuân Khánh, Mạc Lân… là chuyến tàu thứ hai. Có phải vì các ông đi theo kháng chiến nhanh quá, đi vì mỹ cảm chứ ông phải…
DT: Rất thành thật, hoàn toàn vì lý tưởng! Các thế hệ sau khó mà hiểu được cái không khí hồi đó. Say lắm. Không bao giờ có lại thời kỳ dám bỏ tất cả, dám đốt cả Hà Nội mà đi chiến đấu như thế.
PTV: Thời kỳ ông tự đặt ra với mình nhiều câu hỏi nhất là bao giờ?
DT: Những năm 60, sau vụ Nhân Văn, Xét Lại.
PTV: Câu trả lời chung là gì?
DT: Phải có một thế giới khác. Thế giới này đang hỏng. Thế giới này phải làm lại. Và mọi thứ chủ nghĩa đều là không tưởng, con người bịa ra thứ đó để mà dối lừa nhau mà thôi.
PTV: Phản ứng của ông?
DT: Tôi gần như bị tâm thần. Tôi phải tự chữa trị bằng nghe nhạc, chủ yếu là nhạc cổ điển. Tôi gọi đó là nhạc liệu pháp (musicotherapy)
II – NHỮNG NGƯỜI CÙNG ĐI QUA KIẾP NẠN
PTV: Thập niên 60 – 70 của thế kỷ trước, bi kịch ập đến với các ông. Trong khi các ông Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn đã bị gọi tên, sao ông không bị bắt?
DT: Nếu ở Hải Phòng hay một tỉnh nhỏ nào khác, chắc tôi có kết cục giống Bùi Ngọc Tấn. Thấy Vũ Thư Hiên, Kiến Giang, Vũ Huy Cương “đi”, tôi, Mạc Lân, Xuân Khánh cũng khăn gói chuẩn bị đón khả năng xấu nhất. Nhưng chờ mãi không thấy bắt. Có lẽ họ bắt mấy người tiêu biểu. Mà bắt thế đã là quá nhiều rồi!
PTV: Ông chuẩn bị những gì?
DT: Ba lô, vài bộ quần áo, dăm quyển sách, nếu lọt thì có cái giải khuây.
PTV: Ông trả lời với chính quyền như thế nào về những người bạn “khả nghi” của mình?
DT: Câu trả lời luôn là: “Đó là những người bạn tốt nhất của tôi, thương tôi nhất. Có chặt đầu tôi đi thì tôi cũng không tin họ là người xấu!”
PTV: Một điều khó hiểu là ông có thể chơi với những người rất “khắc” nhau. Ví dụ như Trần Dần với Văn Cao chẳng hạn, hai người từng chung nhóm Nhân Văn, ở chung một góc phố, vậy mà chẳng bao giờ giáp mặt?
DT: Họ không chơi nhưng rất trọng nhau. Tôi rất thân với cả hai, tôi biết. Lần nào tôi đến chơi, Văn Cao cũng nhắc đến Trần Dần và ngược lại. Dần bảo: “Thằng Văn nó chưa đẻ nhưng nó là voi, đẻ rất to!” Hôm đám tang Văn Cao, Trần Dần chống gậy đến ngồi như pho tượng. Giữa họ có những vướng mắc do thời cuộc chứ hoàn toàn không phải vấn đề tư tưởng hay quan điểm.
PTV: Nhà văn Bùi Ngọc Tấn có một câu tổng kết buồn để biện minh cho những thành quả ít ỏi của thế hệ mình: “Thế hệ có tất cả. Vậy mà lại mất tất cả. Một thế hệ trắng tay”. Ông nghĩ sao?
DT: Một thế hệ của những tinh hoa bị bỏ phí, bị hắt hủi và làm cho biến dạng. Nhưng bảo là ít đóng góp thì chưa chính xác: một vài người trong số họ cũng đã tạo ra một vài ảnh hưởng có tính tác động trong dòng chảy chung của văn học nước nhà. Và điều này thì gần như chắc chắn: “đó là thế hệ nhiều đam mê và trong trắng nhất”.
III – ÁM ẢNH DÀI VÔ TẬN
PTV: Tôi nói điều này, xin ông đừng giận: có cảm giác, ông chưa vào tù nhưng ông chưa bao giờ được ra tù! Chẳng thà hồi đó người ta bắt ông, nhốt vài năm rồi thả, ông còn được hưởng niềm vui mãn hạn. Đằng này, lúc nào ông cũng sống trong cảm giác của những ngày chờ đợi.
DT: (không đáp, chỉ gật đầu).
PTV: Và lúc nào cũng “giật mình một cái vỗ vai”?
DT: Dù là những lúc vui nhất, tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy yên ổn. Tôi vẫn chưa thoát khỏi cái tâm thái bất an mà tôi gọi là angoisse khi nói chuyện với một nhà báo nước ngoài hồi đầu những năm 1980. Một thứ ám ảnh hồ như pre-apocalyptic, tiền-khải huyền, nơm nớp lo sợ một bất hạnh thình lình ụp xuống. Thấy cháu gái mình thông minh, 5 tuổi nói tiếng Anh như gió, ngữ điệu rất hay, hạnh phúc lắm nhưng ngay lập tức cái angoisse ấy lại ập đến. Xã hội đầy bất trắc, cái gì chờ nó ngay mai?
Tôi còn có một thói quen xấu: tích trữ giấy một mặt. Xưa kia toàn viết giấy xám xịt, có được tờ giấy trắng (như giấy A 4 bây giờ) hoặc pơ-luya là quý như vàng, bình thường không dám viết, chỉ dành cho dịp nào thật đặc biệt, chẳng hạn khi làm được bài thơ nào thật ưng ý mới dám trịnh trọng chép lên. Tôi giữ lại tất cả giấy loại, cái nào còn trắng một mặt là giữ lại, mặc dầu rất hiếm khi dùng đến. Dù bây giờ viết bằng máy tính nhưng cứ phòng sẵn 5- 6 cái bút mới yên tâm. Và tăm nữa. Trong túi lúc nào cũng thủ sẵn một cây (ông móc túi lấy ra cây tăm tre!). Hoàn toàn vớ vẩn, những cái đó! Giấy bây giờ đầy, tăm thì đâu chẳng có. Chẳng qua sống trong cùng quẫn quá lâu nên thành một tâm lý lúc nào cũng lo thiếu thốn, sợ khi hữu sự, không có cái mà dùng!
PTV: Dường như ông trốn vào những lĩnh vực ít phải bày tỏ chính kiến, những lĩnh vực khá khó tiếp cận đối với các nhà chức trách để ít bị bắt bẻ như hội họa. Và lựa chọn khôn ngoan này khiến ông còn “lành lặn” đến bây giờ? Cũng nhờ vậy mà ông cũng góp phần tạo nhiều sân chơi quốc tế cho hội họa đương đại Việt Nam vào cuối thế kỷ 20.
DT: Đúng. Tôi tự bảo mình: kiềm chế đi một tí, và ráng làm mỗi thứ một tí, cố gắng kiễng chân, cố gắng nhích lên. Mỗi người ráng ghé vai đẩy từng milimét, từng phần của milimét, làm sao để thế giới phải khác đi.
IV- BÁN MÁU
PTV: Ở nhà, ông là người thế nào?
DT: Ở nhà tôi luôn bị mắng vì tội ăn dè làm vợ con phát bực. Cả đĩa thịt, tôi chỉ chọn mấy miếng nhỏ. Lúc nào cũng cảm thấy mình có lỗi. Mình nuôi con không bằng người. Chỉ được về mặt văn hóa, còn những cái khác thua kém hết. Đôi lúc thấy cháu mình được nuôi nấng đầy đủ, thấy vui lắm nhưng chỉ một lúc cái angoisse lại đến. Điều này chẳng đứa con nào của tôi hiểu được.
PTV: Trong cuốn “Rừng xưa xanh lá” ông Bùi Ngọc Tấn “tố” ông là người đầu têu rủ bạn bè văn nghệ sĩ trí thức đi bán máu nuôi gia đình?
DT: Tôi chỉ rủ Mạc Lân và Châu Diên thôi.
Hồi đó tôi được ưu ái cấp cho một cái thẻ cho máu (viết tắt là TCM) tức là được công nhận là cộng tác viên cho máu thường xuyên của bệnh viện. Mỗi lần bán máu, ngoài tiền (50 đồng 100cc), còn được cấp các phiếu đường, thịt, đậu. Tôi mang tất về nộp vợ.
PTV: Ông đã bán bao nhiêu lít máu tất thảy?
DT: Không thể tính được. Hơn một năm, cứ hai tuần 1 lần, trung bình 250cc. Lúc cấp bách thì tuần/lần, lần đạt “kỷ lục” nhờ Lê Phát giới thiệu với trưởng phòng huyết bệnh viện Việt Đức thì được ưu tiên bán 300cc.
PTV: Hồi đó ông nặng bao nhiêu?
DT: Hơn 40 kg.
(Lúc kết thúc cuộc phỏng vấn, ra phố Hàng Bài, ông cân thử, kết quả: 53 kg cả giày lẫn áo bông, thế mà vẫn hơn cái thời bán máu hẳn 12kg!
Vụ này, Bùi Ngọc Tấn tưng tửng kể: “Tường ăn mừng thắng lợi với Phát bằng một bữa bia hơi Cổ Tân. Phái hai vại, Tường một vại. Uống xong, Phát nói một câu xanh rờn làm các bàn khác quay cả lại: Hôm nay tao uống máu thằng Tường!”.
Tôi nhẩm tính: hai tháng 1 lít, một năm 6 lít, năm rưỡi 9 lít, chưa kể những lúc vượt chỉ tiêu! Gấp đôi số máu chảy trong cơ thể một con người.
Chín lít máu của Dương Tường, hàng chục lít của Mạc Lân, còn nữa, những Châu Diên, Chính Yên, Phan Kế Bảo, Nguyễn Hàm Châu… Bao nhiêu người đã nhận máu của họ? Những dòng máu này có chảy ngoan ngoãn trong các cơ thể xa lạ kia hay thỉnh thoảng xáo trộn, gây ra những phút ngây ngơ ngoài ý muốn?)
PTV: Ngoài bán máu ra, ông còn có những cách nào khác để qua cơn bĩ cực?
DT: Cũng có một số cách khác tuy không đàng hoàng lắm nhưng lương thiện: Vợ Mạc Lân là nhân viên mậu dịch bán ở quầy thuốc. Tôi đi khám bệnh, xin đơn, đưa ra vợ Lân ghi hóa đơn từng ấy thứ thuốc rồi đem về cơ quan thanh toán, cộng cả tiền bồi dưỡng ốm. Bệnh thật, chỉ có chữa là giả. Mà với những cơ thể suy dinh dưỡng trầm trọng của chúng tôi hồi đó, chẳng lúc nào thiếu bệnh.
Một cách nữa là bán thuốc lá cho căng-tin, tiêu chuẩn công đoàn chia mỗi người được 3-4 bao mỗi tuần theo giá cung cấp, cố nhịn dành được 2 bao đem ra bà hàng nước. Bán cũng không dễ, phải phục cho đến khuya, vắng vẻ mới dám thò thuốc ra. Tôi nghiện thuốc nặng nhưng chỉ dám hút thuốc lá cuộn, trong gạt tàn chẳng có cái đầu mẩu nào vì tất cả đều được gom gop tích lại, lúc bí đem xé ra vấn đi vấn lại.
Cách nữa là tranh thủ nhịn cơm tiêu chuẩn, bớt được bữa nào thì bớt, dư ra phiếu nào bán lại cho nhà bếp lấy tiền đưa vợ đong gạo. Đến nhà người thân tình cứ nhè vào bữa cơm. Chuyện văn chương, triết học cứ đến bữa lại nở như ngô rang, bà chủ bưng cơm lên, mời rơi mình một tiếng. Lấy cớ nói nốt câu chuyện, vừa ăn vừa “làm khách” để giữ sĩ diện nên chỉ dám làm một bát. Thôi thì cầm hơi cho qua ngày, vợ con cũng đỡ được một suất. Nhưng xong rồi thì ngượng lắm!
PTV: Đã bao giờ ông có ý định tự sát?
DT: Không bao giờ.
PTV: Có khi nào ông ước mình là công dân nước khác?
DT: Khi sang Mỹ, tôi thấy đây quả là một đất nước của tự do và có cảm giác là nếu ở đó, mình sẽ làm được nhiều hơn. Nhưng chưa bao giờ tôi ước mình là công dân một nước khác. Tôi không thể sống được ở một nơi nào ngoài Việt Nam.
PTV: Khi cực kỳ phẫn uất hay khinh bỉ, ông hành xử thế nào?
DT: Im lặng.
PTV: Khi quá thất vọng về ai đó?
DT: Không chơi nữa. Có những người ngay từ đầu đã không chơi được
PTV: Cảm giác đỉnh cao của sự “không chơi được”?
DT: Buồn nôn.
PTV: Ông đã gặp mấy người như thế?
DT: Nhiều. Xin đừng bắt tôi phải nêu tên.
Phạm Tường Vân thực hiện từ 2001 -2003
_____
Dương Tường – Nhà báo – Nhà thơ – Dịch giả- Nhà phê bình nghệ thuật.
Tên đầy đủ: Trần Dương Tường
Sinh năm 1932
Cao: 1m60
Nặng: 53kg
Đeo kính cận 20 độ (cho đến khi mổ mắt – năm 1997)
“Thành tích” thời niên thiếu:
14 tuổi tham gia Tổng khởi nghĩa ở Me, 18 tuổi vào bộ đội.
Ba lần thi trượt, chưa tốt nghiệp lớp 7
Trong hơn 70 năm làm việc với chữ: Chuyển ngữ gần 60 tác phẩm của Pháp, Nga, Anh, Hoa Kỳ, Đức, Hy Lạp, Brazil, Nhật Bản, Na Uy sang tiếng Việt.
Tập truyện ngắn Cây tường vi
Vở kịch Chim hải âu, Anton Chekhov
Anna Karenina, Lev Tolstoy
Cái tẩu, Yuri Nagibin
Trong màn sương cuối mùa, Alex La Guma
Cuốn theo chiều gió, Margaret Mitchell
Người dưng, Albert Camus
Con đĩ biết lễ nghĩa, Jean-Paul Sartre
Con đường xứ Flandres, Claude Simon
Cội rễ, Alex Haley
Đồi gió hú, Emily Brontë
Alexis Zorba – Con người hoan lạc, Nikos Kazantzakis
Bức thư của người đàn bà không quen, Stefan Zweig
24h trong đời người đàn bà, Stefan Zweig
Cái trống thiếc, Günter Grass
Mặt trời nhà Scorta, Laurent Gaudé
Kafka bên bờ biển, Haruki Murakami
Charlie và nhà máy sôcôla, Roald Dahl
Lolita, Vladimir Vladimirovich Nabokov
Vở kịch Cơn bão, Shakespeare
Phố những cửa hiệu u tối, Patrick Modiano
Chết chịu, Louis-Ferdinand Céline
Đi tìm thời gian đã mất – Bên phía nhà Swann, Marcel Proust
Đi tìm thời gian đã mất – Dưới bóng những cô gái đương hoa, Marcel Proust
Chuyển ngữ từ tiếng Việt:
Truyện Kiều, từ tiếng Việt sang tiếng Anh.
Sáng tác: Dương Tường – Thơ, Nhà xuất bản Nhã Nam, 201736 bài tình (thơ – in chung với Lê Đạt);
Đàn (thơ ngoài lời), Nhà xuất bản Trẻ;
Thơ Dương Tường – Mea culpa và những bài khác, Nhà xuất bản Hải Phòng;
Chỉ tại con chích chòe (tạp luận), Nhà xuất bản Hải Phòng, 2003;
Thuyền trưởng (truyện ký, dưới bút danh Nguyễn Trinh);
Người tạo dựng nhiều “sân chơi”, đặt nền tảng cho nhiều cuộc giao lưu nghệ thuật trong và ngoài nước: Tâm hồn bộc bạch (Hong Kong), chương trình trao đổi sân khấu Việt – Mỹ đưa vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đến với công chúng Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.