Điểm sách: Xung đột các nền văn minh của Samuel P. Huntington
Đỗ Kim Thêm
1-12020
Tác phẩm
Qua tác phẩm The Clash of Civilization and the Remaking of World Order, Samuel P. Huntington đã nêu lên một luận đề quan trọng về tương lai của chính trị thế giới: Thời kỳ xung đột của Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, tranh chấp không còn do sự dị biệt trong mối quan hệ Đông – Tây và ý thức hệ của các siêu cường. Hiện nay, định đoạt các đường hướng chính trị ngày càng mở rộng trong nhiều lĩnh vực văn hoá, tôn giáo, sắc tộc và văn minh. Trong bối cảnh va chạm mới này, một cuộc thế chiến sẽ có thể xảy ra.
Tác giả
Samuel P. Huntington sinh ngày 18/4/1927 và mất ngày 24/12/2008, tốt nghiệp Cử nhân tại Đại học Yale năm 1946, Thạc sĩ năm 1948 tại Đại học Chicago và Tiến sĩ tại Đại học Harvard năm 1951.
Từ năm 1959 đến năm 1962, ông là Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến tranh và Hòa bình tại Đại học Columbia. Năm 1965, ông được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ. Là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Harvard, năm 1973, ông trở thành Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu các Vấn đề Quốc tế và năm 1978 ông là Giám đốc cho đến năm 1989.
Từ năm 1989 đến năm 2000, Huntington là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược John M. Olin tại Đại học Harvard và năm 1996, ông làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khu vực và Quốc tế.
Ngoài công việc nghiên cứu và giảng dạy, Huntington đã tư vấn cho nhiều chính khách Mỹ. Với số lượng sách nổi danh, ông đã được trao nhiều giải thưởng danh giá.
Các tác phẩm chính:
The Soldier and the State: The Theory and Politics of Civil-Military Relations (1957)
The Common Defense: Strategic Programs in National Politics (1961)
Political Order in Changing Societies (1968)
The Crisis of Democracy: On the Governability of Democracies with Michel Crozieri (1976)
Political Power: USA USSR-Similarities and contrasts, Convergence or evolution, with Zbiniew Brzezinski (1977)
American Politics: The Promise of Disharmony (1981)
The Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century (1991)
The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (1996
Who Are We? The Challenges to America’s National Identity (2004)
Nội dung
Trong thế kỷ XXI, xung đột chính trị thế giới sẽ dựa theo tín điều Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Khổng giáo. Đó là nguyên nhân chính mà các quốc gia Hồi giáo biến thành một liên minh chiến lược và Trung Quốc sẽ lãnh đạo các quốc gia theo Khổng giáo. Cả hai sẽ có thể kết hợp nhau hoặc hành động độc lập, nhằm làm cho vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ và châu Âu sẽ không còn.
Bên cạnh ba tôn giáo này, Huntington còn nêu lên năm đường lối văn hoá làm trầm trọng hơn cho các xung đột tôn giáo, đó là Nhật Bản, Ấn độ, Liên Xô và khối Đông Âu, Nam Mỹ và Phi Châu. Tất cả những xung đột sẽ đi theo ba tiến trình chính.
Bước khởi đầu là các nhà lãnh đạo sẽ nâng cao vai trò mậu dịch. Trước khi hoạch định chính sách, phương tiện sản xuất và mục tiêu thị trường, họ xác định chuyển hướng sách lược ngoại thương, chọn mục tiêu và đối tác sao cho phù hợp nhất với quyền lợi quốc gia.
Bước thứ hai là họ xác định mức tác động của tôn giáo và văn hoá trong vai trò phát triển mậu dịch. Việc phán đoán này là một khởi điểm khó khăn vì giá trị đóng góp là hoàn toàn trừu tượng. Khi hiểu được bản sắc, chúng ta có thể tự phân biệt chúng ta là ai, không giống ai ở điểm nào và phải làm gì để chống ai. Con người cần có đối tác để giúp cho mình nâng cao bản sắc. Các nền văn hoá giống nhau cũng phản ứng tương tự, thường có khuynh hướng kết hợp nhau và xem các nền văn hoá xa lạ là kẻ thù và cùng hành động chống lại đối thủ chung.
Sự đối nghịch trong bối cảnh Đông Tây chỉ là một hiện tượng hỗn loạn nhất thời, nay đã thuộc về lịch sử. Để giải quyết các tranh chấp đa dạng hiện nay, các nhà lãnh đạo có nhu cầu kết hợp những lĩnh vực mà mục tiêu không phù hợp nhau và xem sử dụng bạo lực làm giải pháp. Do đó, trong chiều hướng này, những sức mạnh chính trị, quân sự và kinh tế chiếm ưu thế và tôn giáo và văn hoá lâm vào vị thế thứ yếu.
Bước thứ ba là tình hình thế giới thay đổi triệt để, một khoảng trống quyền lưc trong chính trị quốc tế thành hình khi Liên bang Xô viết và khối Đông Âu sụp đổ.
Trước đây, các siêu cường có thái độ chính trị dựa trên ý thức hệ, hiện nay, các biên giới chính trị được phân định lại theo các tiêu chuẩn văn hoá, sắc tộc, tôn giáo và văn minh. Các quốc gia và dân tộc có một nền văn hoá gần gủi nhau có khuynh hướng đoàn kết thành các cộng đồng chung. Các khối hoạt động đối nghịch nhau trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh nay cùng tìm cách hoạt động chung và đồng thuận cho các định nghĩa thuộc về văn minh và văn hoá.
Do tương đồng trong niềm tin tôn giáo và văn hoá, các nước Hồi giáo kết hợp thành một liên minh chính trị. Trung Quốc ý thức tình trạng này và biết tận dụng lợi thế cho để tạo ra thu hút cho một liên minh trong các nước Á Đông khi xem triết lý Khổng giáo là sức mạnh mềm. Các nền văn minh là một chỉ dấu xúc tác trong tiến trình kết hợp các quốc gia và dân tộc. Tiến trình này tiến triển nhanh hay chậm còn thuộc nhiều yếu tố khác.
Trước hiện trạng này, các nước không có một nền văn hoá chung khó có thể liên kết với các nước khác để tìm một căn bản cho công cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.
Huntington gọi chiến tranh là xung đột quân sự giữa các phe nhóm có các nền văn hoá khác nhau, mà giao tranh trong vùng Balkan là thí dụ: một bên thuộc về Thiên chúa giáo và bên kia là Chính thống giáo, trong khi đó tại Palestine cũng xảy ra tương tự, xung đột hai bên dựa theo Hồi giáo và Do thái giáo.
Các cuộc đấu tranh quyết liệt này khó thoả hiệp vì lý tưởng cao cả là niềm tin tôn giáo mà đối thủ là kẻ bị cáo buộc thiếu đức tin. Tham gia chiến cuộc là một hình thức xác nhận và bảo vệ niềm tin theo giáo điều chung. Do đó, mọi phân hoá trong nội bộ tôn giáo cũng cần phải dẹp tan, vì mục tiêu là cùng nhau chiến đấu chống kẻ thiếu đức tin. Mức độ chiến cuộc khi lan rộng có thể gây nguy hiểm thảm khốc và phân hoá lâu dài hơn.
Trong khi các nước Hồi giáo và Trung Quốc trỗi dậy và tương tranh quyền lực, Hoa Kỳ và châu Âu phải hợp tác chặt chẻ hơn về mặt chính trị, cần nhận ra và khai thác triệt để các dị biệt nội tại của kẻ thù để làm họ suy yếu.
Để tăng thêm phương tiện cho công cuộc đấu tranh mới, phương Tây phải bảo vệ các ưu thế về quân sự và kinh tế, cụ thể là cần kiểm soát hoặc ngăn trở việc phát triển các loại vũ khí hiện đại. Muốn đạt được thành quả này, phương Tây phải tạo thêm hậu thuẩn là cần kết hợp với các nước trong châu Mỹ La tinh, gây thân thiện với Liên Xô và các nước theo Chính thống giáo và Nhật Bản.
Cuối cùng, Huntington kết kuận là phương Tây phải triệt để tôn trọng nguyên tác cổ điển của Luật Quốc tế, không can thiệp vào nội bộ các nước khác hay các nền văn hoá khác. Những khái niệm chính trong thời Chiến tranh Lạnh vẫn có thể áp dụng trong thời đại mơî, nhưng phải ý thức tránh gây thiệt hại. Dù khái niệm cổ điển dựa trên sức mạnh quân sự vẫn còn đúng, nhưng cần xét lại nghiêm túc hơn. khi sức mạnh nhằm duy trì ổn định và ngăn chận các bùng phát lại gây thảm khốc lâu dài.
Nhận xét
Luận đề của Huntington gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi trong giới trí thức quốc tế, nhưng không có sức thu phục tuyệt đối và có hai phản biện chính.
Một là, số lượng các liên minh quân sự ngày càng gia tăng; điều này là đúng. Dù có xung đột thuần túy mang ý nghĩa tôn giáo, nhưng các giới lãnh đạo có thể ý thức dị biệt tôn giáo để khai thác cho mục tiêu chính trị.
Hai là, số lượng các liên minh không quan trọng, đó không là lý do duy nhất làm phát sinh các chiến tranh toàn diện.
Thống kê cho thấy là khuynh hướng liên kết các nuớc thành một khối thuần về văn hoá để gây chiến hay bảo vệ theo như luận điểm của Huntington chưa thể hiện rõ nét.
Sau Thế chiến II, các xung đột nội chiến tập trung tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Từ năm 1945 đến trước năm 1995, Bắc Mỹ và Tây Âu đuợc coi là một khu vực hoà bình vì không xảy ra nội chiến. Nhìn chung, phương Tây tham chiến ít hơn tại các nước chậm tiến.
Năm 1995 xung đột tại Nam Tư cũ là một khởi điểm cho các cuộc nội chiến trong một lãnh thổ có cùng văn hoá hoặc tôn giáo chung. Somalie, Algerien, Agypten, Ruanda, Nam Phi và Afghanistan là thí dụ cho thấy tình trạng phân hoá trong một khu vực hay quốc gia. Xung đột trong hai tông phái Sunnite và Schiite tại Iran và Iraq, Tin lành và Thiên chúa giáo tại Ireland cho thấy bản chất của xung đột là phức tạp hơn, có thể trong cùng tôn giáo. Do đó, một trật tự mới cho chính trị quốc tế theo mô hình của Huntington chưa hình thành.
Ngược lại, tinh thần liên minh giữa các nền văn minh là một đặc điểm khác hẳn khi so với các suy đoán của Huntington. Các nước phương Tây không hỗ trợ cho các phe theo Thiên chúa giáo trong cuộc xung đột tại Nam Tư. Nước Anh và Pháp đã dành nhiều thiện cảm cho Chính thống giáo và kể cả cho Hồi giáo tại Serbie.
Các liên minh của Mỹ với Nhật Bản, Đại Hàn và Đài Loan không dựa trên tôn giáo mà vị thế chiến lược hay huy động nguồn lực là mục tiêu chính. Tự do lưu thông hàng hải là một lợi thế chung cho các nước quan tâm đến mậu dịch quốc tế trong khi tranh chấp quyền vẹn toàn lãnh hãi là một quan tâm khác của Trung Quốc các nước trong khu vực.
Saudi Arabie hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của miền Nam Yemen chống lại Bắc Yemen không có ý nghĩa tôn giáo. Hơp tác của Hoa Kỳ vơi Saudi Arabie để chống Iran, một cường quốc khu vực có trang bị vũ khí hạch tâm, cũng tương tự như vậy, ý nghĩa tôn giáo không là mục tiêu cho sự hợp tác.
Do đó, chiến tranh trong cùng một nền văn minh và nhu cầu liên minh giữa các nền văn minh là hai vấn đề cần phân biệt.
Lập luận chung cho là các nguyên nhân xung đột tại các nước chậm tiến mang một sắc thái khác hơn, đó là do tiến trình canh tân hơn là do dị biệt tôn giáo. Vấn đề dị biệt tôn giáo hồi sinh có thể một phần là do hậu quả kinh tế và xã hội. Chân lý tôn giáo trở thành một giá trị chung gây đoàn kết cho toàn xã hội, một mục tiêu trong các chương trình canh tân trở thành cực đoan.
Các phong trào tôn giáo có khuynh hướng cho là xây dựng xã hội và bảo vệ cá nhân bị áp bức là chính. Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo tại Ai Cập, Hizbollaz tại Libanon, Đảng Phúc lợi tại Thỗ đã có đề ra những chương trình hành động thuộc phạm vi hoạt động xã hội là thí dụ.
Trong việc huy động quần chúng, chính quyền tại các nuớc dựa theo hay chống lại tôn giáo làm cho các thế lực chính trị thế tục hình thành. Giới theo tôn giáo lập luận là khủng hoảng xã hội hiện nay bắt nguồn do việc mất niềm tin tôn giáo, một giá trị căn bản toàn diện cho phát triển tâm linh cá nhân và xã hội. Chính quyền phải tìm về tôn giáo như là một cội nguồn cho mọi giải pháp thế tục.
Ngược lại, giới đối kháng cáo buộc chính quyền là bất lực trong nỗ lực canh tân đất nước. Đại đa số dân chúng lầm than là nguyên nhân biến tôn giáo thành một một chổ dưa tinh thần hay vũ khí chính trị để chống đối. Trong tiến trình này, vai trò tôn giáo hồi sinh và tìm cách kết hợp với những thế lực phương Tây. Để có sự hỗ trợ này, tôn giáo biến thành đối lực thế tục và xem chính quyền là một trở ngại cho tiến trình canh tân.
Một trào lưu mới càng ngày càng rõ ra: Xung đột lan rộng khi đời sống của dân chúng bị xáo trộn trầm trọng. Sự cách biệt giàu nghèo mở rộng làm cho các phong trào đấu tranh bất công xã hội có thêm nhiều người ủng hộ, nhất là khi tầng lớp trung lưu cũng bị thiệt thòi. Khủng hoàng tài chính năm 2008 là thí dụ điển hình. Nhân dịp này, các chính khách đối lập ít sử dụng dị biệt tôn giáo như là một chiêu bài để huy động quần chúng. Lý do đối kháng tôn giáo là một tiến trình không thể hiện rõ nét trong hầu hết các xung đột tại các nước chậm tiến.
Thực ra, giới nắm quyền chính trị cấu kết nhau và trục lợi các tài nguyên đất nước thành quyền lợi phe nhóm. Các khối tranh chấp nhau là do quyền lợi kinh tế và xã hội nhiều hơn. Do đó, các khủng hoảng kinh tế và xã hội mới là nguyên nhân chính, các dị biệt tôn giáo và văn hoá không hẳn là nguyên nhân xung đột.
Tại các nước phương Tây, như tại Ý và Mỹ, các phong trào đòi canh tân tôn giáo cũng đề cao các luận điểm hậu quả xã hội là chính. Giới trẻ gốc người Thổ, dù sinh trưởng tại Đức, nhưng lại không thể hội nhập xã hội. Đó cũng là trường hợp giới trẻ gốc Bắc Phi sinh ra và lớn lên tại Pháp.Thất vọng trong việc hội nhập xã hội là nguyên nhân cho đa số thường có khuynh hướng bạo động và thánh chiến là một hình thức hiện đại để phản ứng trước tình trạng mất gốc.
Kết luận
Nhìn chung, thế giới đang sống trong một thời đại bất thường mà dịch binh COVID-19 đang còn kéo dài là một thảm hoạ chung cho nhân loại. Nền kinh tế thị trường không còn một mô hình phát triển hoàn hảo trong khi nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận làm cho hệ thống dân chủ tự do lâm nguy. Nguy cơ trước mắt là Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp. Nguyên nhân là các định chế chính trị đã không thể vận hành thích ứng với các xáo trộn. Giải pháp cho vấn đề tuỳ thuộc vào việc cải cách định chế chính trị và tạo ra cách để cho con người thích nghi.
Hiện nay, các cuộc khủng bố của các nhóm cực đoan đã lên đế mức bào động khiến cho nước Pháp, Bỉ, Áo và Đức đang bị tổn thương nặng nề. Chính giới Tây Âu lo là sẽ có một cuộc chiến tranh tôn giáo xảy ra.
Vai trò tôn giáo trong tranh chấp chính trị quốc tế chiếm một ý nghĩa quan trọng. Những căng thẳng gần đây trong bang giao Pháp và Thổ là một ưu tư chung, trong khi đã từ lâu bang giao với vùng Cận Đông, từ Afghanistan, Iran cho đến Saudi Arabia, Ai Cập và Sudan đều trở nên khó khăn hơn. Đối diện với các trào lưu cuồng tín chủ trương thánh chiến đang gia tăng sức mạnh có thể làm cho các xung đột hiện nay trầm trọng hơn.
Trong hoàn cảnh bất định, lời tuyên bố khai chiến “cuộc chiến chống khủng bố” trước đây của Bush, Cheney và Rumsfeld vẫn còn thuyết phục. Những cảnh báo mới nhất của Macron về nguy hiểm của Hồi giáo cho các vấn đề an ninh nội chính vẫn còn mang tính thời sự.
Thực ra, xung đột trầm trọng này cũng không thễ dẫn đến một việc thành lập một khối liên hiệp các nước Hồi giáo chống phương Tây theo suy luận của Hutington. Liên minh chiến lược thuộc khu vực Ấn độ-Thái Bình Dương cũng là một phản đề cho Huntington.
Văn hoá Khổng giáo, một chiến lược trá hình đầy tham vọng bành trướng của Trung Quốc không còn thu phục thế giới, vì cộng dồng thế giới đã nhận ra hung đồ Trung Quốc khi sử dụng sức mạnh mềm Khổng giáo. Sau khi đại dịch bùng phát, uy tín của Trung Quốc cũng không còn trong khi Mỹ và châu Âu, vì đường lối phát triển dị biệt, cũng không đoàn kết so với trước đây.
Do đó, trong hiện tại và tương lai, không thể xác định tuyệt đối là có một cuộc chiến hoàn toàn dựa trên lý do tôn giáo, văn hoá hay văn minh.
Ngược lại, không phải chính quyền đóng vai trò độc tôn, mà xã hội dân sự và mạng lưới truyền thông xem vấn đề an ninh chung cũng quan trọng và phải lo tự bảo vệ. Đó là những đặc điểm của một xã hội dân chủ mở rộng, mà đó là tự do cá nhân, lòng khoan dung trước sự đa dạng của các hình thái của đời sống và khuynh hướng tốt sẵn sàng để chấp nhận quan điểm của người khác ngày càng phổ biến và dễ chấp nhận hơn. Vấn đề còn lại cho chính quyền các nước là phải ý thức sử dụng tôn giáo trong công cuộc đấu tranh đa dạng, cả trong môi trường kinh tế và xã hội.
Trong khi đề cao Khổng giáo, Huntington không thảo luận về vai trò đóng góp cùa Phật giáo trong việc xây dựng hoà bình thế giời. Khuyết điểm này được các nhà nghiên cứu về Phật giáo bổ sung. Hầu hết cho là quan điểm hiếu hoà của Phật giáo là một nguồn lực dồi dào cho tiến trình hoà giải toàn cầu và nền văn minh hiện đại với các lập luận như sau:
Một là, Phật giáo có một quyền năng văn hoá để huy động con người tuân thủ đạo đức để đạt đến lý tưởng hoà bình. Phật giáo tạo giá trị, tính hạnh và trách nhiệm cho tất cả mọi người trong xã hội, cổ vũ cho tinh thần bất bạo động, tôn trọng tha nhân, đoàn kết và khoan dung. Chế độ chính trị nào cũng có thể phát huy lý tưởng của Phật giáo để gây tĩnh thức về giá trị này như là một khuôn mẫu cho hoà bình.
Hai là, con người có khả năng và mong muốn sống trong một thế giới an hoà, trong tất cả mọi người trên toàn cầu có cùng một tài sản đạo đức chung, đó là Phật tính. Khi nhận ra đặc điểm giá trị này, chúng ta sẽ dễ thu phục và áp dụng trong các vấn đề bảo vệ môi sinh và giải giới quân sự, một điểm thiết yếu để chung sống trong một thế giới an hoà và thịnh vượng.
Ba là, giáo lý hiếu hoà của Phật giáo làm cho con người nối kết nhau và mở rộng mọi biên giới, một khuôn khổ phổ quát trong việc áp dụng cho việc xây dựng hoà bình. Dù đó là một chuyển hướng thực tế, nhưng chúng ta phải cộng nhận là còn quá khó khi áp dụng trong toàn cầu. Những khó khăn này cần được điều chỉnh lại trong lúc kiểm nghiệm thực tế cho phù hợp hơn.
Bốn là, trong các hoàn cảnh dị biệt, thái độ của con người thay đổi liên tục. Nguyên tắc nội quan theo Phật giáo là bước nhận thức khởi đầu. Chúng ta cần đáp ứng bằng cách mở rộng quan điểm về hoà bình với môi trường trong tính tương đối và có ràng buộc trong điều kiện địa phương. Điều quan trọng là cá nhân tự thấy nỗ lực của mình là chưa đủ mà còn có sự đồng tình của nguời chung quanh.
Tóm lại, Phật giáo mang lại một nền tảng cho việc giáo dục hoà bình, một mục tiêu tối hậu và một phương tiện hiếu hoà, mà tiết chế lòng ham muốn, áp dụng tinh thần bất bạo động, tôn trọng tha nhân, đoàn kết và khoan dung là thiết yếu. Xây dựng hoà bình là giáo dục hoà bình và thực hiện phương pháp bất bạo động.
Đồng hành với Phật tử, mọi người sẽ cảm thấy rằng, hoà bình là một khái niệm năng động và liên tục, đối thoại và hợp tác liên tôn có nhiều khả năng để giải quyết các vấn đề của thế giới đương đại, mà Huntington chưa trình bày trong chi tiết.
Dù có khiếm khuyết, nhưng The Clash of Civilizations and the Remaking of World Ordertrở thành một danh tác cổ điển, những cảnh báo của Huntington có giá trị nhất định cho những ai quan tâm đến các vai trò đóng góp của văn minh, văn hoá và tôn giáo trong việc xây dựng hoà bình thế giới.
***
Samuel P. Huntington, The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, Simon & Schuster UK; Re-issue Edition 2002.
Giới thiệu trang nhà của tác giả: https://kimthemdo.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.