Thư giãn Chủ nhật
bauxitevnSun 7:27 AM
Những điềm báo của chữ Hán giản thể đã trở thành sự thực, chuẩn xác một cách đáng sợ!(*)
Hiểu Mai biên dịch
Văn hóa Á Đông không hề đơn giản như bề mặt mà mọi người nhìn thấy. Từng nét lễ nghi, từng bộ trang phục, từng nét chữ… đều ẩn chứa những nội hàm vô cùng sâu sắc, và liên hệ mật thiết với từng hơi thở trong cuộc sống của chúng ta.
Có một nét văn hóa mà không thể không nhắc đến, chính là nội hàm thâm sâu của loại chữ viết tượng hình - Chữ Hán. Tuy nhiên, sau khi chữ Hán phồn thể (chính thể) bị [Nhà nước CHNDTH] giản lược, thì những nội hàm ấy cũng bị mất đi, thay vào đó là sự lệch lạc, thậm chí biến dị.
Có một cư dân mạng đã liệt kê ra hàng loạt các chữ Hán giản thể. Tác giả đối chiếu những chữ Hán giản thể này với các hiện tượng tai nghe mắt thấy trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Và những điều nhìn thấy được khiến người ta không khỏi phải giật mình kinh ngạc!
1. Chữ “Thân” phồn thể 親 (người thân) / Chữ “Thân” giản thể 亲, mất chữ “Kiến” 見 -> Thân bất Kiến
Thân bất kiến: Người thân không gặp được nhau. Một năm chẳng biết cha mẹ, con cái, người thân được đoàn tụ bao nhiêu lần? Nơi nào cũng thấy lưu lại những cuộc tình chớp nhoáng. Các quý ông, quý bà khinh thường đạo lý, lang chạ khắp nơi. Điều này khiến những người cùng huyết thống cũng chẳng được vui vầy bên nhau.
Khi chữ “Thân” giản thể (ảnh dẫn theo dulichanhsaomoi.com).
2. Chữ “Sản” phồn thể 產 (sinh sản) / Chữ “Sản” giản thể 产, mất chữ “Sinh” 生 (sinh nở)-> Sản bất Sinh
Sản bất sinh: Đậu thai mà không sinh. Ngày nay các phòng khám tư, phẫu thuật phá thai nơi nào cũng thấy. Ruộng màu thì bị bỏ hoang, mọi người đổ dồn về các khu công nghiệp và thành phố lớn, không cần ngũ cốc chỉ lo kiếm tiền.
3. Chữ “Hương” phồn thể 鄉 (quê hương) / Chữ “Hương” giản thể 乡, mất chữ “Lang” 郎(chàng trai trẻ) -> Hương vô Lang
Hương vô lang: Quê nhà không còn người trẻ. Ai nấy đều đổ về thành phố lập nghiệp mưu sinh. Trong thôn làng khó có thể bắt gặp những khuôn mặt trẻ trung. Khắp cả ngôi làng chỉ thấy những người già yếu, trẻ con và người tàn tật. Đây cũng chính là một cảnh tượng thường thấy nhất tại Trung Quốc ngày nay.
4. Chữ “Ái” phồn thể 愛(yêu) / Chữ “Ái” giản thể 爱, mất chữ “Tâm” 心 (trái tim) -> Ái vô Tâm
Ái vô tâm: Yêu không xuất phát từ trái tim. Ngày nay thử hỏi có mấy người còn giữ tấm chân tình son sắt, hay là chỉ quen chạy theo thời thế xô bồ. Đại gia cặp với chân dài. Kẻ ham tiền, người háo sắc, hễ có lợi là trao thân. Tình một đêm, tình sét đánh, tình chớp nhoáng khiến nhà nghỉ mọc lên nhan nhản khắp nơi. Quả là tình yêu không còn sự kết nối thiêng liêng và chịu trách nhiệm trong suốt cuộc đời như văn hóa Thần truyền xưa kia.
5. Chữ “Miến” phồn thể 緬 (mỳ) / Chữ “Miến” giản thể 面, mất “bộ Mạch”麥 (lúa mỳ) -> Miến vô Mạch
Miến vô mạch: Bột mỳ không làm từ lúa mạch, thì làm từ thứ gì, bạn thử đoán xem? Bột mỳ không có mùi lúa mạch, kỳ thực đã trộn lẫn phoóc môn. Đây cũng là tình trạng làm giả thực phẩm, gạo giả… phổ biến trong xã hội ngày nay.
Bột mì giả (ảnh dẫn theo phapluatplus.vn).
6. Chữ “Tiến” phồn thể 進 (tiến tới) / Chữ “Tiến” giản thể 进 thêm chữ “Tỉnh” 井 (cái giếng), mất chữ “Giai” 佳 (tốt) -> Tiến bất Giai
Tiến bất giai: Bước tiến sẽ không may mắn, mà thành con ếch ngồi trong đáy giếng. Sự nghiệp cả đời truy cầu chỉ như mò trăng đáy nước, thu góp tiền tài cũng như hái hoa trong gương.
7. Chữ “Ứng” phồn thể 應 (hồi ứng) / Chữ “Ứng” giản thể 应, mất chữ “Tâm” 心 (lòng) -> Ứng vô Tâm
Ứng vô tâm: Lời nói gió bay, dẫu hứa hẹn cũng khó thành hiện thực, nói lời rồi lật lọng mà không biết ngượng ngùng. Bởi vậy, trong xã hội ngày nay ‘thành tín’ ngày càng mai một, dường như đã trở thành một thứ gì đó xa xỉ không với tới. Đây cũng là tình trạng xuống dốc, đạo đức ngày càng suy đồi.
Người xưa rất xem trọng chữ Tín, coi lời thề hẹn nặng tựa núi Thái Sơn, lời nói ra là đã được Trời Đất làm chứng, ắt phải thực hiện. Tuy nhiên, nhiều người ngày nay vốn ảnh hưởng bởi học thuyết vô Thần, lừa gạt lật lọng, chỉ hòng đạt được lợi ích cho mình. Thật chẳng đáng buồn lắm sao!
8. Chữ “Thính” phồn thể 聽 (nghe) / Chữ “Thính” giản thể 听, mất chữ “Nhĩ” 耳 (tai) -> Thính vô Nhĩ
Thính vô nhĩ: Nghe mà lại không có tai. Chữ “Thính 聽” (lắng nghe) ở dạng phồn thể gồm bộ “Nhĩ 耳” (tai), bộ “Vương 王” (vua), chữ “Thập 十” (mười), chữ “Mục目” (mắt), chữ “Nhất 一” và chữ “Tâm 心”. Nếu ghép các bộ này vào nhau chúng ta sẽ hiểu được hàm ý mà ông cha ta muốn gửi gắm. Khi lắng nghe một ai đó, chúng ta phải khiến người ấy cảm thấy mình quan trọng như một vị vua (chữ Vương), và lắng nghe bằng đôi tai của mình (bộ Nhĩ). Đồng thời chúng ta còn phải dồn mọi ánh nhìn và sự chú ý tới họ (chữ Thập, chữ Mục). Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, điều quan trọng nhất là phải dành trọn trái tim để cảm nhận những điều họ nói (chữ Nhất, chữ Tâm). Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể lắng nghe trọn vẹn những thông điệp mà họ muốn truyền tải, mới biết cách thấu hiểu và trân trọng người khác.
Chữ “Thính” 听 giản thể là Thính thiếu Nhĩ: Nghe mà thiếu mất tai. Nó chỉ gồm bộ “Khẩu 口” (cái miệng) và bộ “Cân 斤” (cái rìu). Đại ý là không phải dùng tai, dùng mắt, hay dùng tâm để lắng nghe như văn hóa truyền thống, mà là nghe bằng miệng, nghe những lời búa rìu sắc nhọn.
Khi chữ “Thính” giản thể (ảnh dẫn theo twitter.com).
9. Chữ “Ưu” phồn thể 優 (ưu tú) / Chữ “Ưu” giản thể 优, mất chữ “Ưu” 憂 (âu lo) -> Ưu vô Ưu
Ưu vô ưu: Ưu tú mà lại vô lo. Muốn thành người ưu tú, xuất chúng cần phải biết lo lắng cho đại cục, cho người khác. Bậc hiền tài như vậy trong thiên hạ là khó cầu nhất. Người tài thời nay nghĩ đến vinh hoa, phú quý cho riêng mình hay lợi ích cho muôn dân? Những người nhiều tài lắm tật, e rằng lợi ít hại nhiều. Kiểu người này chỉ khiến con người càng thêm lo sầu.
10. Chữ “Thái” phồn thể 採 (hái) / Chữ Thái giản thể 采, thiếu bộ Thủ 手 (cái tay) -> Thái vô Thủ
Thái vô thủ: Muốn hưởng mà không muốn động tay ra hái. Ngồi mát ăn bát vàng người người muốn, đục nước béo cò kẻ kẻ cầu. Đây cũng có thể nói là một thực trạng dễ thấy trong xã hội ngày nay. Những cậu ấm cô chiêu, những thế hệ trẻ chỉ biết ‘cúi đầu’ chờ đợi từ sự sắp đặt của cha mẹ mình, chỉ mong cầu hưởng thụ cuộc sống giàu sang mà không biết ra tay làm việc.
11. Chữ “Địch” phồn thể 敵 (kẻ địch) / Chữ “Địch” giản thể 敌, thêm bộ “Thiệt” 舌 (cái lưỡi) -> Địch thiêm Thiệt
Địch thiêm (添 = thêm) thiệt: Tấc lưỡi là kẻ thù rất đáng sợ. Vậy nên mọi người khi nói năng, diễn thuyết phải chú ý. Bách gia tranh minh [của Mao] là cái bẫy. Theo ta thì sống, chống ta thì chết, muốn sống phải nói cùng khẩu khí với ta. Điều này có thể dễ dàng nhìn thấy trong thời Đại cách mạng Văn hóa tại Trung Quốc. Chính phủ trưng cầu ý kiến của giới trí thức, để họ tự do biểu đạt lý tưởng của mình. Sau đó dùng chính những lý luận đó khép họ vào tội phản quốc. Có người thậm chí vì vậy mà mất mạng.
12. Chữ “Bút” phồn thể 筆 (cây bút) / Chữ “Bút” giản thể 笔 [thay “Duật” 聿 (bút thẳng)bằng “Mao” 毛 (lông), hình dạng thẳng biến thành cong]
Ngày nay bút không còn thẳng. Con người thường dùng bút cong mà viết sử nên gọi là bẻ cong sử sách. Bút ngay sử thẳng xưa đã có, tới nay sóng gió đã cuốn trôi.
Khi chữ “bút” giản thể (ảnh dẫn theo twitter.com)
13. Chữ “Tân” phồn thể 賓 (quan khách) / Chữ “Tân” giản thể 宾, thiếu chữ “Bối” 貝 (bảo bối), thêm chữ “Binh” 兵 (binh lính) -> Tân khuyết Bối thiêm Binh
Tân khuyết (缺 = thiếu) bối thiêm binh: Xưa kia khách quý đến nhà mang theo quà quý thanh nhã (貝 - bảo bối). Chủ nhà bày biện yến tiệc, khoản đãi với tấm lòng thành. Ngày nay binh lính tới nhà (bộ “Miên” 宀 chỉ mái nhà), không chỉ thiếu quà quý, mà còn có binh đao. Từ xưa đã gọi chuyện này là loạn cõi thế gian.
14. Chữ “Miếu” phồn thể 廟 (đền miếu) / Chữ “Miếu” giản thể 庙, thiếu chữ “Triều” 朝(nghi thức bái lạy) -> Miếu bất Triều
Miếu bất triều: Trong đền miếu mà không thấy thật tâm tiến hành những nghi lễ bái lạy Thần Phật. Ngày xưa đền miếu chùa chiền là nơi con người ăn năn sám hối, bởi con người kính cẩn bái lạy Thần Phật, mong tìm được sự thanh thản trong tâm.
Ngày nay, đền miếu chùa chiền như chiếc áo khoác của những kẻ vô Thần, trở thành thắng cảnh du lịch, thành nơi kiếm chác, trao đổi của kẻ phàm tục. Người mà đến quỷ thần cũng không sợ, ắt sẽ to gan dám làm càn.
15. Chữ “Võng” phồn thể 網 (lưới) / Chữ “Võng” giản thể 网, mất bộ Mịch 糸 (sợi cước) -> Võng vô Mịch
Võng vô mịch: Lưới không có cước, lưới vô dụng, cá lọt lưới trước mắt như thể trêu ngươi. Pháp luật cũng như một chiếc lưới. Ngày xưa Thiên tử cũng phải chịu tội như thứ dân. Ngày nay quyền lực thay pháp luật một cách vô nguyên tắc, thậm chí có thể lợi dụng quyền thế trong tay mà một tay che cả bầu trời.
16. Chữ “Hậu” phồn thể 後 (đời sau) / Chữ “Hậu” giản thể 后, thêm chữ nhất 一 và bộ khẩu 口
Đời sau chỉ được sinh một con, về già cha mẹ ốm đau bệnh tật khó lòng nhờ vả. ‘Kế hoạch hóa gia đình là quốc sách, sinh quá một con gia đình nghiêng ngả’. Đây là chính sách một con thường thấy ở xã hội Trung Quốc. Bao nhiêu hệ lụy của xã hội, quả thực cũng khiến lòng người âu lo.
Khi chữ “Hậu” giản thể(ảnh dẫn theo wintechvietnam.com).
***
Ở trên chỉ là một số ít ỏi trường hợp được đưa ra, nhưng cũng đủ để biết thực chất việc cải cách chữ Hán. Chữ Hán sau khi bị giản lược thì những nội hàm tinh túy của văn hóa truyền thống cũng bị mất đi, thay vào đó là sự sai lệch, biến dị. Mà điều đáng tiếc hơn cả là, sự suy đồi và trượt dốc trong xã hội, dường như cũng đã và đang diễn ra đúng theo từng sự lệch lạc trong từng chữ Hán giản thể đó.
Vậy nên, có người cho rằng, những chữ Hán giản thể này giống như là một điềm báo chẳng lành vậy!
Quả đúng là:
“Học giả chân chính đứng một bên,
Cải cách chữ Hán mù văn hóa.
Thiên thu vạn đại diễn trò hề,
Điềm báo không sai: thấy đại họa”.
H.M.
Theo soundofhope.org
__________
(*) Bauxite Việt Nam có bổ sung, hiệu chỉnh ít nhiều để bạn đọc người Việt dễ tiếp nhận hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.