Đảng không thể vượt qua rào cản ý thức hệ đối nghịch trong “chính sách đặc biệt” cho trí thức?
Bài bình luận của ông Phạm Quý Thọ - PGS.TS nguyên Trưởng Khoa Chính sách Công, Học Viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Việt Nam
2023.04.13
Giáo sư Nguyễn Văn Nam (phải) Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân trao bằng Tiến sĩ danh dự cho Bộ trưởng Kinh tế Đức Philipp Roesler (giữa) tại một buổi lễ ở Hà Nội vào ngày 17/9/2012 (minh hoạ). Reuters
Hệ tư tưởng toàn trị đối nghịch với tự do vẫn chi phối mọi lĩnh vực cuộc sống xã hội. Trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế thị trường, chủ nghĩa Mác - Lênin mang bản sắc dân tộc ngày càng bộc lộ các bất cập trong hoạch định và thực thi chính sách, trong đó đặc biệt là cơ chế, chính sách đối với trí thức cần có môi trường tự do để sáng tạo. Ý thức hệ CNXH đã trở nên giáo điều cản trở cải cách do chính Đảng Cộng sản khởi xướng, nhưng để duy trì chế độ, giới lãnh đạo khăng khăng bảo vệ nó bằng mọi phương tiện và mọi cách, và việc lợi dụng “lời nói dối cao thượng” là một cái cớ biện minh để che đậy “mâu thuẫn” một cách tinh vi.
Như đã trình bày ở bài trước, cơ chế hoạt động của trí thức dẫn đến thịnh vượng có liên quan trực tiếp đến thể chế đã được thực tế chứng minh rằng nhiều tự do hơn sẽ dẫn đến nhiều tri thức hơn, nhiều khám phá hơn, nhiều ý tưởng hơn. Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và dẫn đến xã hội thịnh vượng… Vậy câu hỏi đặt ra là nếu tự do khuyến khích kiến thức phát triển thì tại sao khiến Đảng, Nhà nước lo ngại về môi trường và quyền “tự do” của trí thức nói riêng và người dân nói chung?
Câu trả lời là cải cách thể chế đang bị níu kéo bởi ý thức hệ chủ nghĩa xã hội giáo điều.
Tri thức sản sinh ra đổi mới, sáng tạo nhưng đồng thời nó luôn mang đến những yếu tố bất ngờ, không thể đoán trước. Sự bất khả đoán định này gây “khó chịu” cho các lãnh đạo của các chế độ nói chung và đặc biệt với chế độ toàn trị. Mục tiêu của họ là loại bỏ bất ngờ. Điều này được nhận thấy trong tất cả, từ quan điểm không tưởng về chủ nghĩa cộng sản (CNCS), áp đặt công cụ kế hoạch hoá tập trung khiến nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, kiểm soát xã hội dân sự và từng cá nhân… và, sự tuyên truyền nguỵ biện tạo ý thức hệ kể cả khi buộc phải cải cách toàn diện đất nước.
Như đã nêu, mô hình toàn trị kiểu cũ đã sụp đổ khiến Đảng Cộng sản buộc phải cải cách thể chế theo thị trường. Và, nó được bắt đầu từ tự do kinh tế. Tự do làm ăn là thuộc tính tự nhiên, là quyền con người, nhưng nó chỉ được Đảng Cộng sản “cho phép” trong chủ trương Đổi mới năm 1986. Những người nông dân cùng cực, dũng cảm ở tỉnh Vĩnh Phú thực hiện “khoán chui” ngay trên chính đồng ruộng của họ đã khởi đầu cho chính sách khoán trong nông nghiệp, tạo hiệu ứng lan chuyền sang các lĩnh vực khác của nền kinh tế.
Như một bài học “phải trả giá” về cải cách, người ta nêu trường hợp ông cố Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc “tự chuyển biến” để “phá rào” chính sách hợp tác hoá nông nghiệp. Từ “đốm lửa nhỏ” tự do kinh tế, đường lối Đổi mới đã mang những lợi ích kỳ diệu, cứu đất nước thoát nghèo và tăng trưởng. Về lý thuyết, đó là một nguyên tắc vận hành của thị trường mà nhà kinh tế học Adam Smith đã phát kiến trong thời kỳ khai sáng, năm 1776, nhưng thực chất là chủ nghĩa tư bản đã cứu chế độ cộng sản thoát khỏi sự sụp đổ.
Đổi mới ở Việt Nam, từ đó, đã thúc đẩy ban hành nhiều luật lệ, thể chế tự do hơn cho nền kinh tế theo hướng thị trường, cho đến khi ngày càng nhiều hiện tượng “ngạc nhiên”, sự “bất ngờ”, thậm chí đang cảnh báo về “cú sốc” có thể khiến chế độ sụp đổ, bởi vì tự do kinh tế thúc đẩy các quyền tự do dân sự, chính trị.
Bối cảnh này đang khiến giới lãnh đạo Đảng Cộng sản lo ngại và đối phó, và họ với quyền lực sẵn có và độc tôn đang nỗ lực loại bỏ những "bất ngờ" bằng cách hạn chế tự do.
Đảng - Nhà nước củng cố toàn trị, tăng cường lãnh đạo bằng các nghị quyết, kiểm soát tư pháp và hành pháp, trấn áp sự bành trướng của “tư bản”, thúc đẩy đầu tư công khó khăn, trì hoãn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và quá trình tự chủ hoá các đơn vị sự nghiệp công lập, và nhiều chính sách cải cách khác cũng ở tình trạng trì trệ…
Rõ ràng, trên quan điểm tự do hoá, cải cách thể chế đang có những “bước lùi” và, nguyên nhân chủ yếu là do bị níu kéo bởi ý thức hệ giáo điều. Đó là hệ tư tưởng được kết nối với quá khứ thoát khỏi đô hộ của chủ nghĩa thực dân, phong kiến để hướng tới xã hội cộng sản lý tưởng. Tuy nhiên, giới lãnh đạo không biết tới xã hội đó bằng cách nào, mô hình Xô-viết đã thất bại, nay họ lại “thử nghiệm” mô hình Trung Quốc duy trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với thị trường và toàn xã hội. Mặc dù đạt được tăng trưởng cao từ điểm xuất phát thấp nhưng nay đang phải đối diện với sự sụt giảm kinh tế và khủng hoảng thể chế… Và, giới lãnh đạo lại lần nữa nỗ lực tìm cách đối phó với nguy cơ sụp đổ… Kiểu vận hành chế độ như vậy khiến chúng ta liên tưởng tới mô hình “cộng hoà” của Plato với triết lý “lời nói dối cao thượng”.
Platon (428/427 - 348/347 trước Công nguyên) là triết gia Hy Lạp trong thời dân chủ cổ đại Athens. Ý tưởng “Lời nói dối cao thượng” của Plato (tiếng Hy Lạp là gennaios pseudos) rằng, bên ngoài xã hội không hoàn chỉnh của chúng ta là một thế giới hoàn hảo vĩnh hằng của các Hình mẫu - những phiên bản lý tưởng của các sự vật và khái niệm xung quanh ta. Chúng phục vụ như một loại chuẩn mực cho xã hội của chúng ta hướng đến. Thực tại của chúng ta được tạo nên bởi những bản sao không hoàn hảo của các Hình mẫu. Theo Plato, những Hình mẫu cần được chiêm nghiệm và lý giải để có thể định hướng tốt hơn cho thực tại đang lạc lối của chúng ta. Cai trị là công việc chiêm nghiệm các Hình mẫu. Trong nền “Cộng hòa”, Plato tưởng tượng ra một xã hội lý tưởng nơi công lý là mục đích cao nhất. Thành phố lý tưởng của ông hướng tới một sự hòa hợp giữa những thành phần riêng lẻ và sự cai trị của một vị vua hiền triết… Ngoài cấu trúc xã hội lý tưởng còn cần một “lời nói dối cao thượng” khiến cho mọi người tuân theo trật tự này.
Ý tưởng “cao thượng” của Plato ở chỗ nó có thể có lợi xã hội bằng cách thuyết phục những công dân thiếu hiểu biết về điều gì đó tốt cho họ, tuy nhiên, nó đã bị những kẻ cai trị độc đoán lợi dụng như cái cớ để họ tuyên truyền giả dối đi kèm với chuyên chế là vì “lợi ích chung”. Kiểu như: chủ nghĩa tư bản là bất công và xấu xa, chủ nghĩa cộng sản được coi là Hình mẫu lý tưởng như thiên đường trên cõi trần gian, trong đó “của cải tuôn dào dạt”, mọi người bình đẳng bác ái, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu…, những người cộng sản là tiên phong và dẫn dắt người dân đến đó, lãnh tụ luôn được đánh bóng hình ảnh, sự sụp đổ của mô hình Xô-viết là do M. Gorbachov – “vị vua - tội đồ”, cải cách theo tư tưởng thực dụng được cho chỉ là “sách lược” lên CNXH, thị trường không phải là chủ nghĩa tư bản, kết quả tăng trưởng nhờ thị trường nhưng được tuyên truyền do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản…
Quá trình cải cách dựa trên tư tưởng thực dụng, về thực chất, là tự do hoá kinh tế - xã hội, và trong những năm vừa qua nó đã mang lại thành công về kinh tế. Điều đó giúp cho giới lãnh đạo Cộng sản lợi dụng triết lý “lời nói dối cao thượng” sao cho người dân tin vào CNXH. Tuy nhiên, tự do hoá, mặc dù đang bị cản trở, nhưng nó đã trở thành xu hướng khó đảo ngược, và một khi cải cách xa rời tự do sẽ không thể bảo đảm cho tăng trưởng lâu dài, phát triển bền vững đất nước.
P.Q.T.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.
Nguồn: RFA Tiếng Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.