Văn Mai Hương có nên xấu hổ vì đã phản đối Luật An ninh mạng?
Võ văn Quản
29-12-2019
Không. Ngàn lần không.
Sau vụ việc ca sĩ Văn Mai Hương bị phát tán các clip riêng tư được đặt trộm và quay lén ngay trong tư thất của mình, nhiều người dân và cộng đồng mạng phải lên tiếng bảo vệ cô. Tuy nhiên, cũng có một số nhóm có màu sắc “đấu tranh cách mạng” nhanh chóng lên tiếng chê bai rằng Văn Mai Hương cuối cùng cũng phải lụy tới “Luật An ninh mạng” khi ngày xưa cô này dám lên tiếng… phản đối dự thảo. Nhiều bài viết còn khẳng định vụ việc này chính là để chứng minh cho sự cần thiết của Luật An ninh mạng.
Họ không thể lầm hơn.
Có cần Luật An ninh mạng để bảo vệ quyền riêng tư?
Không, không, và không.
Nếu bỏ qua Hiến pháp vốn tương đối chung chung và không có những quy định chi tiết, thì trước khi Luật An ninh mạng ra đời, chúng ta đã có không ít quy định.
Quyền riêng tư thuộc về lĩnh vực luật dân sự, và đạo luật gốc của lĩnh vực này là Bộ luật Dân sự 2015, trong đó nói rõ tại Điều 38:
“1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.”
Trong trường hợp có các hình ảnh, thông tin bị phát tán có thể gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, Điều 34 của Bộ luật Dân sự cho phép Văn Mai Hương yêu cầu tòa án can thiệp để gỡ bỏ và đòi bồi thường.
Nếu bạn cho rằng Bộ luật Dân sự vẫn còn chung chung và chế tài chỉ mang bản chất dân sự, còn có hằng hà sa số các văn bản về quản lý môi trường mạng và thông tin số để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Văn Mai Hương mà không cần phải viện đến Luật An ninh mạng.
Trước nhất, có thể kể đến Luật Công nghệ Thông tin 2006, đã sửa đổi bổ sung, một đạo luật liên quan đến vấn đề kiểm soát thông tin số, quản lý an toàn và an ninh thông tin. Trong đó, ở Điều 12, Luật này nghiêm cấm việc “cung cấp, trao đổi, truyền đưa, lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm mục đích xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân”.
Luật Viễn thông 2009 cũng có thể được lấy ra làm cơ sở bảo vệ quyền lợi cho Văn Mai Hương, với Điều 12 khẳng định việc cấm sử dụng hạ tầng và dịch vụ viễn thông (internet, mạng viễn thông di động và các phương tiện viễn thông khác) để phát tán thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân.
Thậm chí, nếu muốn tìm cơ sở trong các văn bản dưới luật rõ ràng và chi tiết hơn, chúng ta cũng không thiếu bất kỳ một công cụ nào. Ví dụ, Nghị định 72/2013/NĐ-CP quy định chi tiết về kiểm soát hoạt động của các trang thông tin điện tử, trang mạng xã hội và thẩm quyền của Bộ Thông tin – Truyền thông và các cơ quan dưới quyền trong việc bảo đảm xử lý hành vi đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.
Vậy nên, cần khẳng định rằng Luật An ninh mạng gần như không đóng góp chút vai trò gì trong việc khẳng định nghĩa vụ bảo vệ thông tin riêng tư cá nhân của nhà nước Việt Nam từ trước đến nay.
Có cần Luật An ninh mạng để xử lý hành vi vi phạm quyền riêng tư?
Lại càng không. Nói thẳng ra, có hay không có Luật An ninh mạng thì người dân vẫn có quyền, và cơ quan nhà nước vẫn có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi về thông tin cá nhân và xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm, bất kể là không gian thật hay không gian mạng.
Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP, có căn cứ bao gồm cả Luật Viễn thông và Luật Công nghệ Thông tin, quy định rõ sẽ phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng đối với một trong các hành vi như: Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật / Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Nếu nghiêm trọng hơn, Bộ luật Hình sự Việt Nam cũng đã được chuẩn bị sẵn để đối phó với các hành vi có tính chất nguy hiểm và có tổ chức hơn, như trường hợp của Văn Mai Hương.
Theo đó, khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Người nào thực hiện hành vi “Mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó, thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.
Nếu quả thực vụ việc này có yếu tố đột nhập vào hệ thống camera của nhà riêng Văn Mai Hương để trộm dữ liệu thì cũng đã có Điều 289 quy định về “tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác”, với án tù lên tới 12 năm.
Ta tạm bỏ qua tính hợp lý của các quy định trên. Nếu chỉ nói về công cụ pháp lý để bảo vệ quyền riêng tư của các cá nhân trong xã hội thì pháp luật Việt Nam không thiếu đến mức phải cần đến Luật An ninh mạng. Nhưng còn một vấn đề lớn hơn nhiều.
Luật An ninh mạng có bao giờ nhắm vào việc bảo vệ quyền riêng tư?
Chuyện này đã được các chuyên gia phân tích kỹ càng vào năm 2018, khi Luật An ninh mạng được thảo luận ở Quốc hội. Và câu trả lời là rất rõ ràng: Luật An ninh mạng không những không nhắm đến việc bảo vệ quyền riêng tư, mà còn trực tiếp trao quyền cho nhà nước xâm phạm quyền riêng tư của người dân.
Trọng tâm của những tranh cãi liên quan đến Luật An ninh mạng thật ra chỉ nằm trong Điều 26, theo đó trao quá nhiều thẩm quyền cho cơ quan bảo vệ an ninh mạng của Bộ Công an và các cơ quan chức năng khác mà không cần tòa án cho phép.
Ví dụ, Luật An ninh mạng bắt buộc các nhà cung cấp dịch vụ phải cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an bất kỳ khi nào họ đưa ra yêu cầu bằng văn bản.
Thậm chí, nếu cần thiết, Bộ Công an và cơ quan của Bộ Thông tin – Truyền thông còn có thẩm quyền cắt đứt hoàn toàn việc sử dụng mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng đối với bất kỳ cá nhân nào mà không cần thông qua xét xử.
Ngược lại với lập luận của các nhóm đang muốn đấu tố Văn Mai Hương, việc phản đối Luật An ninh mạng thật ra là nhằm bảo vệ các thông tin cá nhân, thông tin riêng tư khỏi khả năng tiếp cận, sử dụng và cấm đoán tùy tiện từ phía cơ quan có thẩm quyền. Văn Mai Hương, vì thế, đã rất đúng khi phản đối Luật An ninh mạng.
***
Với những lý do trên, người viết tin rằng quyền được bảo vệ thông tin, hình ảnh cá nhân, dù trên mạng xã hội hay không, dù có phát tán bằng các kênh viễn thông và mạng internet hay không, luôn được ghi nhận rõ ràng trong pháp luật Việt Nam, trước khi Luật An ninh mạng ra đời. Những hành vi tấn công Văn Mai Hương chỉ vì cô này phản đối sự tùy tiện văn bản luật nói trên, chỉ thể hiện một là sự vô duyên, hai là sự thiếu hiểu biết của người tấn công.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.