Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023

Thế giới đã thay đổi như thế nào trong năm từ khi Nga xâm lược Uk

 

Thế giới đã thay đổi như thế nào trong năm từ khi Nga xâm lược Ukraine

TIME

Tác giả: Yasmeen Serhan

Đỗ Kim Thêm dịch

22-2-2023

Cảnh bên ngoài Bảo sanh viện Mariupol, Ukraine. Nguồn ảnh: Evgeniy Maloletka/ AP

Nhà cách mạng Bolshevik Vladimir Lenin được cho là đã nói rằng: “Có những thập niên mà không có gì xảy ra và có những tuần lễ mà nhiều chuyện xảy ra giống như hàng thập niên.” Mặc dù tính xác thực của lời trích dẫn vẫn còn nghi ngờ, nhưng tiền đề của nó không thể nào đúng hơn khi nói đến cuộc xâm lược toàn diện của Nga ở Ukraine.

Trong năm kể từ khi Tổng thống Nga Vladimir Putin khởi động cái gọi là “chiến dịch quân sự đặc biệt”, thế giới đã bị thay đổi sâu đậm, có lẽ theo một số cách mà nó sẽ không thể thay đổi được.

Cuộc xâm lược ngày 24/2/2022 đã dấy lên một ý thức mới về mục đích bên trong châu Âu và liên minh quân sự phương Tây rộng lớn hơn do Mỹ dẫn đầu; nó đã làm đảo lộn nền kinh tế thế giới và ràng buộc một thực tại mới về năng lượng tại châu Âu và cũng đã thúc đẩy cho những người dân di dời nhanh nhất và lan rộng nhất trong nhiều thập niên. Thậm chí nó còn đã bắt đầu gây ảnh hưởng đến tư duy về địa chính trị xung quanh các sự kiện chưa xảy ra.

Một năm trôi qua, cho đến nay, đây là những hậu quả đáng kể nhất của cuộc chiến.

Khối NATO hồi sinh

Khi Putin bắt đầu đặt nền móng cho cuộc xâm lược ở Ukraine, ông đã chỉ ra những gì được mô tả là một mối đe doạ sinh tồn do sự mở rộng của khối NATO trong không gian của hậu Xô Viết.

Kể từ đó, những gì đã từng là nỗi sợ hãi, nay đã trở thành một lời tiên tri thành sự thật: Do kết quả của cuộc xâm lược, liên minh quân sự phương Tây sẵn sàng mở rộng hơn nữa với sự chuẩn bị tham gia của Phần Lan và Thụy Điển (mặc dù Thụy Điển đang bị Thổ Nhĩ Kỳ phủ quyết).

Chỉ một năm trước đây, việc mở rộng như vậy là điều không tưởng. Từ lâu, Phần Lan và Thụy Điển được coi như là các vùng trái độn giữa phương Tây và Nga, những quốc gia trung lập và đã tránh các liên minh quân sự, đó là một hiện trạng đã được đa số người dân ủng hộ. Nhưng cuộc xâm lược của Moscow ở Ukraine đã phơi bày khả năng bị tổn thương của họ và dường như chỉ trong một sớm một chiều, công luận bắt đầu nghiêng về phía ủng hộ họ về tư cách thành viên khối NATO.

Cựu Thủ tướng Phần Lan Alexander Stubb nói: “Phần Lan sẽ rất khó có thể gia nhập khối NATO một cách nhanh chóng nếu không có Putin”, mặc dù đó không phải là tất cả những gì mà ông tin nơi các nhà lãnh đạo Nga đạt được trong vô tình.

Cuộc xâm lược Ukraine không chỉ thúc đẩy sự mở rộng của liên minh mà còn dẫn đến một công cuộc đầu tư hơn nữa giữa các thành viên, đáng chú ý nhất là Đức và Ba Lan, cả hai đã gia tăng đáng kể ngân sách cho quốc phòng.

Thật vậy, tất cả các thành viên thuộc khối NATO đang đi đúng hướng để thực hiện các nguyên tắc của liên minh là chi ít nhất 2% GDP của quốc gia cho quốc phòng; thậm chí còn có cuộc thảo luận về việc chi quá mục tiêu đó.

Trong khi các lời kêu gọi của Ukraine xin gia nhập liên minh đã bị từ chối, tuy nhiên, Kyiv vẫn được hưởng lợi từ sức mạnh quân sự của các thành viên, một số quốc gia đã cam kết viện trợ tài chính và quân sự hàng tỷ đô la.

Trong cuộc chiến của Putin, đó là sự trớ trêu. Một năm trước đó, Anders Fogh Rasmussen, Cựu Tổng thư ký của Liên minh nói:“Putin muốn có khối NATO ít hơn. Bây giờ, như là kết quả trực tiếp của hành động của mình, Putin đã có khối NATO nhiều hơn“.

Một châu Âu mạnh mẽ hơn, thống nhất hơn

Giống như khối NATO, Liên minh châu Âu đã thu hút được sự quan tâm của các thành viên có tiềm năng mới. Ukraine đã nộp đơn xin gia nhập trong vòng vài ngày sau cuộc xâm lược của Moscow, tiếp theo là Georgia và Moldova.

Khối NATO lần lượt được hưởng được một ý thức mới về sự thống nhất và mục đích; cho đến nay, khối này đã thông qua chín biện pháp trừng phạt nhắm vào các quan chức, ngân hàng, ngành công nghiệp Nga và còn nhiều nữa. Vòng trừng phạt thứ 10 đang tiến hành.

Các quan chức châu Âu thừa nhận rằng, việc duy trì thỏa thuận giữa 27 thành viên trong cơ quan Liên Âu là chuyện không dễ, đặc biệt là khi nói đến việc đạt được sự ủng hộ của các chính phủ thân cận với Moscow hơn, thí dụ như Hungary. Nhưng nhìn chung, cuộc chiến ở Ukraine đã thúc đẩy sự đoàn kết của châu Âu và thậm chí đã cho phép Ba Lan, một quốc gia hậu Xô Viết khác, từng mâu thuẫn với Brussels về các vi phạm nguyên tắc nhà nước pháp quyền, nổi lên như một quốc gia mang tiêu chuẩn đoàn kết của Liên Âu, chống lại sự xâm lược của Nga.

Trong khi các quốc gia thành viên trong khối Liên Âu ủng hộ Ukraine vẫn còn cao, bao gồm cả từ phía dường như không có gì là chắc chắn, chẳng hạn như Boris Johnson, cựu Thủ tướng Anh và nhà lãnh đạo phong trào Brexit, việc Kyiv gia nhập khối khó có thể xảy ra sớm.

Tuy nhiên, theo cách nhìn của một số nhà quan sát, câu hỏi về tư cách thành viên Liên Âu của Ukraine là vấn đề khi nào, chứ không phải là nếu. Stubb nói: “Ukraine cuối cùng sẽ trở thành thành viên Liên Âu“, một dự đoán mà ông cũng đã mở rộng sang cho Georgia và Moldova. “Khi ai đó hành xử hung hăng và bất hợp pháp như Putin đã làm, thì các nước còn lại của chúng ta sẽ tập hợp và đoàn kết.”

Cuộc khủng hoảng tị nạn lớn nhất trong nhiều thập niên

Một trong những hậu quả nghiêm trọng nhất của cuộc xâm lược Nga là hàng triệu người Ukraine di tản, cả trong và ngoài nước.

Cho đến nay, theo cơ quan tị nạn của Liên Hiệp Quốc ghi nhận, đã có hơn 8 triệu người tị nạn Ukraine khắp châu Âu, phần lớn trong số họ là phụ nữ và trẻ em (nam giới Ukraine trong độ tuổi từ 18 đến 60 không được phép ra khỏi nước). Con số này chiếm gần 20% dân số Ukraine trước khi chiến tranh, tỷ lệ cao nhất hiện có thể được tìm thấy ở nước láng giềng Ba Lan cũng như Đức và Cộng hòa Séc.

Beata Javorcik, Trưởng Kinh tế gia tại Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu nói: “Đây là cuộc di dời bắt buộc nhanh nhất của người dân kể từ thập niên 1940 và ghi nhận việc mất tài nguyên nhân lực sẽ có tác động sâu đậm đến Ukraine và khả năng tái thiết khi cuối cùng chiến tranh kết thúc.” 

Bà nói thêm, nhìn chung, người tị nạn thường là những người trẻ hơn, có học thức hơn, nhiều doanh nhân hơn, đây là những người mà đất nước cần để tái thiết.”

Sự kết hợp giữa kinh doanh và địa chính trị

Trước cuộc xâm lược của Nga, kinh doanh và địa chính trị phần lớn có thể tồn tại tách biệt nhau.

Dmitry Grozoubinski, một nhà đàm phán về thương mại trước đây của Tổ chức Thương mại Thế giới và nay là người sáng lập trang web ExplainTrade nói, vấn đề có ý nghĩa khi “bạn có thể để cho thương mại làm việc thương mại và để mọi người xây dựng chuỗi cung ứng, đầu tư, họ kiếm tiền từ bất cứ nơi nào mà việc kiếm tiền có ý nghĩa, họ sản xuất mọi thứ ở bất cứ nơi nào, mà việc sản xuất các mặt hàng có ý nghiã, và hãy để cho chuyện địa chính trị là việc của địa chính trị và đó là hai loại công việc riêng biệt.”

Nhưng chỉ vài ngày sau khi Điện Kremlin tấn công Ukraine, nhiều doanh nghiệp trên khắp thế giới đã tuyên bố ý định tạm ngừng các thương vụ tại Nga.

Grozoubinski nói: “Sự thay đổi lớn nhất đã xảy ra trong tâm trí mọi người sau cuộc xâm lược Ukraine là theo dõi xem địa chính trị có thể lấn át các cân nhắc kinh tế nhanh như thế nào. Các nhà quản lý yêu cầu các doanh nghiệp đưa ra các phân tích rủi ro thuộc về địa chính trị, nhưng ngày càng có nhiều hội đồng quản trị đang làm điều đó”, điều mà ông nói sẽ chứng minh có liên quan khi nói đến các mối quan hệ Mỹ-Trung.

Tuy nhiên, trong số hơn 1.500 doanh nghiệp đa quốc gia tuyên bố là họ sẽ tự nguyện rời khỏi thị trường Nga, khoảng 500 doanh nghiệp đã hoàn tất việc này, theo một danh sách do Đại học Yale biên soạn.

Một bản phân tích khác gần đây được nhóm B4Ukraine thực hiện, đó là một liên minh của các tổ chức xã hội dân sự Ukraine và quốc tế, cho thấy trong số 3.000 doanh nghiệp đa quốc gia, hơn một nửa còn tiếp tục làm ăn với Nga.

Nhiều doanh nghiệp trong số này có trụ sở đặt tại các nước thuộc nhóm G7, theo báo cáo mới nhất, họ “có khả năng làm suy yếu các nỗ lực của nhóm nhằm cắt giảm các doanh thu của Điện Kremlin và hỗ trợ cho một Ukraine độc lập”.

Ít phụ thuộc vào dầu mỏ và khí đốt của Nga

Sau cuộc xâm lược của Nga, châu Âu đã áp đặt các lệnh cấm nhập khẩu dầu của Nga và đã giảm sự lệ thuộc vào khí đốt của Nga từ 35,7% vào tháng 2/2022 xuống còn 12,9% hiện nay, một sự thay đổi là kết quả từ sáng kiến của châu Âu cũng như của Moscow. Ngoài việc Điện Kremlin yêu cầu người nước ngoài mua khí đốt của Nga trả bằng đồng rúp để hỗ trợ đồng tiền của đất nước đang gặp khó khăn, Gazprom, doanh nghiệp năng lượng của Nga, đã ngừng vô thời hạn việc cung cấp khí đốt cho Tây Âu thông qua đường ống Nord Stream 1.

Trong khi sự sụt giảm mạnh về năng lượng của Nga đã làm dấy lên mối lo ngại về một cuộc khủng hoảng năng lượng trong mùa đông này, tác động của việc này đang được cảm nhận trên khắp lục địa, nó cũng đã thúc đẩy việc chuyển sang các nguồn năng lượng tái tạo thay thế.

Javorcik nói: “Các thành viên thuộc Đông Âu của Liên Âu, vốn coi việc chuyển đổi xanh là điều mà Brussels áp đặt lên cho họ; thực ra,họ đang chấp nhận việc chuyển đổi xanh này vì nó đã trở thành vấn đề an ninh năng lượng. Đột nhiên, họ nhận thức rằng an ninh năng lượng không thể đạt được bằng cách đa dạng hóa thuộc về địa lý của các nguồn năng lượngcần đa dạng hóa các loại nguồn”.

Một nước Nga bị cô lập hoàn toàn

Stubb, cựu lãnh đạo Phần Lan nói:“Thực tế mà chúng ta phải đối mặt ở châu Âu là một nước Nga bị cô lập thường trực, và đây sẽ là một vấn đề mang tính thế hệ“.

Trong tương lai, ngay cả khi chiến tranh kết thúc, có thể sẽ mất nhiều thập niên, nếu không muốn nói là nhiều thế hệ để khôi phục niềm tin giữa Nga và phương Tây. Đối với người Ukraine, ngày đó có thể sẽ không bao giờ đến.

Malcolm Chalmers, Phó Tổng giám đốc Royal United Services Institute, một cơ quan nghiên cứu tại Luân Đôn, cho biết: “Chúng tôi sẽ không thể ghép quả trứng vỡ lại với nhau một lần nữa. Bất cứ điều gì xuất hiện từ việc này sẽ rất khác so với năm 2021, vì niềm tin đánh mất nơi Nga sâu xa hơn rất nhiều.”

Nhưng tinh thần đoàn kết với Ukraine có giới hạn của nó. Như các cuộc đầu phiếu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chỉ rõ, không phải tất cả các quốc gia đều sẵn sàng tham gia vào cuộc chiến này nhiều hơn những gì họ đã làm. Ấn Độ và Trung Quốc tiếp tục chuyển động giữa ranh giới mà bề ngoài có vẻ là trung lập, cũng như hàng chục quốc gia khác mà họ đại diện cho gần một nửa dân số thế giới.

Chalmers nói thêm: “Cuộc khủng hoảng đã cho thấy hầu hết thế giới không liên kết vẫn không liên kết và, trong một số trường hợp, vẫn nghiêng về phía Nga. Không có sự đồng thuận quốc tế chống Nga; có sự đồng thuận của phương Tây chống Nga.”

Một trọng tâm mới về Đài Loan

Ngay cả khi Ukraine tiếp tục tạo ra sự chú ý trong toàn cầu, các nhà lãnh đạo thế giới đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến Trung Quốc và những bài học tiềm ẩn mà nước này có thể thu thập được từ Moscow.

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg có nói với Nikkei Asia rằng: “Bất kỳ nỗ lực nào của Trung Quốc nhằm cố gắng thay đổi hiện trạng [ở Đài Loan] bằng cách sử dụng sức mạnh quân sự sẽ có hậu quả nghiêm trọng đối với Đông Á. Nhưng nó cũng sẽ gây ra hậu quả cho các đồng minh của khối NATO và an ninh toàn cầu.”

Tất nhiên, có những khác biệt cơ bản giữa Ukraine và Đài Loan. Trong khi Ukraine là một quốc gia độc lập được quốc tế công nhận, còn Đài Loan thì không. Trong khi sự gián đoạn thương mại giữa Nga và phương Tây đã được chứng minh là đặc biệt gây tổn hại cho nền kinh tế toàn cầu, một tranh chấp tương tự như vậy với Trung Quốc, nơi tự hào có nền kinh tế gấp 10 lần Nga, sẽ là “ngày tận thế”, Grozoubinski nói.

Stubb nói: “Trong khi Putin và Tập Cận Bình là những nhà lãnh đạo hoàn toàn khác nhau (“Tập Cận Bình kiên nhẫn và thông minh”, trong khi “Putin thiếu kiên nhẫn và hấp tấp”), những sai lầm mà Putin phạm phải minh họa cho những gì có thể xảy ra nếu Tập Cận Bình chọn đi theo con đường tương tự đối với Đài Loan.”

Khi Putin vừa vào Kyiv trong 48 giờ, Tập Cận Bình có thể nghĩ rằng, có lẽ ông ta có thể làm điều tương tự ở Đài Loan. Nhưng bây giờ Tập Cận Bình hiểu là không thể.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.