Chính quyền TP.HCM và lễ giỗ Tả quân Lê Văn Duyệt
29-8-2022
Theo tin từ các báo, năm nay lễ giỗ Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành, được tổ chức trọng thể vào các ngày 26, 27 và 28.8.2022. Lễ giỗ có sự tham dự và thắp hương tưởng niệm đức Tả quân của các vị lãnh đạo cao nhất thuộc Thành ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng nhân dân, cùng nhiều viên chức cao cấp khác tại thành phố.
Những người yêu văn hóa lịch sử hi vọng đây chỉ mới là bước khởi đầu của tiến trình xác định nhận thức về công ơn của tiền nhân đối với đất nước nói chung và mảnh đất miền Nam nói riêng. Sau Tả quân Lê Văn Duyệt, sẽ còn có những bậc công thần nữa cần được khẳng định công lao giữ đất và mở đất, phát triển kinh tế – xã hội, mang cơm no áo ấm lại cho hàng triệu người dân từ tứ xứ tập hợp về miền đất phía Nam này: Trương Minh Giảng, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu)…
Nhân sự kiện trọng đại trên, xin giới thiệu lại với các bạn một bài viết về Tả quân Lê Văn Duyệt in trong quyển “Nhà Nguyễn và những vấn đề lịch sử”, xuất bản và tái bản vào các năm 2010, 2015, 2016, 2018.
Trân trọng!
***
TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC Ở GIA ĐỊNH THÀNH
Trong ký ức của người Sài Gòn-Gia Định sinh trưởng vào những thập niên 1940 -1950 trở về trước, hình ảnh “Lăng Ông Bà Chiểu” là một trong những biểu tượng đậm nét, nhất là vào những ngày lễ Tết, việc đi viếng lăng Ông trở thành một tập quán thiêng liêng mà mỗi gia đình đều không bao giờ sơ suất. Trong nghi ngút khói hương thành kính, lòng mỗi người nhớ về Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành, như một nhân vật lỗi lạc đã góp công lớn trong việc gầy dựng vương triều Nguyễn, mang lại thái bình thịnh trị cho một dải đất trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên và tạo được thế mạnh trong quan hệ với các nước láng giềng.
* LÊ VĂN DUYỆT, HỔ TƯỚNG THỜI NGUYỄN ÁNH-GIA LONG
Năm 1763, khi cư dân Lê Văn Toại, người gốc Quảng Ngãi, chứng kiến sự ra đời của cậu bé Lê Văn Duyệt tại Vàm Trà Lọt – Định Tường (nay thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), nhìn thấy tình trạng bất túc (về cơ quan sinh dục) của con trai, ông chẳng bao giờ nghĩ rằng có một ngày nào đó, con mình trở thành một nhân vật hiển hách bậc nhất triều đình.
Trong thời thơ ấu, ông Duyệt chỉ có một đam mê lớn nhất là… đá gà. Thế rồi năm 1780, một bước ngoặt xảy ra khi ông tình cờ gặp được chúa Nguyễn Ánh đang trên đường ẩn lánh trước sự truy đuổi của quân Tây Sơn. Với thể trạng bất túc bẩm sinh, ông chỉ có thể làm một Thái giám tầm thường chuyên phục vụ nội cung. Thế nhưng, ông đã không cam lòng với thân phận đó, vì sau những bước gian truân cùng chúa Nguyễn nơi đất khách, ông đã chứng tỏ cho mọi người một nhãn quan nhạy bén về quân sự, một khả năng cầm quân đầy hứa hẹn. Nhờ đó, vào năm 1793, từ một Thuộc nội Cai đội (chánh ngũ phẩm) Lê Văn Duyệt được thăng Thuộc nội Vệ úy (chánh tam phẩm), một biệt lệ chưa từng thấy trong giới hoạn quan lúc bấy giờ.
Những năm cuối thập niên 1790, khi nhà Tây Sơn, sau cái chết của vị anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ (1792), đã để lộ những khiếm khuyết trầm trọng, từ sự lộng quyền của Thái sư Bùi Đắc Tuyên đến những mâu thuẫn nội bộ hoàng gia, Lê Văn Duyệt tỏ rõ là một dũng tướng dưới trướng chúa Nguyễn Ánh, không một trận đánh nào do ông cầm quân mà thất bại. Hiển hách nhất là trận Thị Nại vào tháng giêng âm lịch năm 1801, trận đánh quyết định cho cả một cuộc chiến.
Lúc này, ông đã là Đô Thống chế Tả dinh quân thần sách, hàm Tòng nhất phẩm. Trong trận chiến sống mái với hổ tướng Tây Sơn Võ Văn Dũng, bộ tướng của ông là Võ Di Nguy bị trúng đạn tử thương, chúa Nguyễn Ánh muốn lui binh, nhưng ông thân hành cầm quân xốc tới, dùng hỏa công thiêu cháy hầu hết thuyền chiến Tây Sơn. Sử xác định đây là võ công lớn nhất trong cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn.
Sau khi chúa Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, lấy niên hiệu Gia Long (1802), kết thúc một thời kỳ biến động dài trên đất nước, võ nghiệp của Lê Văn Duyệt không vì thế mà kém hào hùng. Ở Quãng Ngãi, có người Man Thạch Bích thường gọi là “Mọi Đá vách”, rất nhiều lần nổi lên đánh phá, quan quân địa phương không trừ nỗi, cứ mỗi lần như thế, dù ở triều đình hay ở Gia Định thành, ông đều được điều ra đó để dẹp yên. Đặc biệt năm 1819, ông được cử đi kinh lược đất Thanh Hóa, Nghệ An, nghe oai danh ông, bọn giặc cướp tại địa phương vừa ra hàng, vừa giải tán, chỉ sau một thời gian ngắn, tình hình rối ren chấm dứt; ông dâng sớ xin chấn chỉnh bộ máy cai trị ở địa phương, tha thuế cho dân, từ đấy hai trấn này yên hẳn.
* LÊ VĂN DUYỆT – NHÀ CAI TRỊ LỚN ĐẤT GIA ĐỊNH THÀNH
Cùng với Bắc thành, Gia Định thành là tổ chức hành chánh đặc biệt thời Gia Long, gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên), trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên, phần lớn là đất mới thu phục, dân cư ô hợp từ khắp nơi tụ hội về sinh sống. Năm 1812, Lê Văn Duyệt được cử làm Tổng trấn Gia Định thành, quyền hạn cao hơn cả cấp Thượng thư. Ông không chỉ là một hổ tướng, mà còn là một nhà cai trị lỗi lạc. Tính chung, thời gian ông đảm trách chức chưởng Tổng trấn là 16 năm, gồm 4 năm thời Gia Long (1812-1816) và 12 năm thời Minh Mạng (1820-1832), đủ để ông làm được nhiều điều, cả ở cương vị một quan cai trị lẫn người đại diện triều đình trong giao dịch, ứng xử với lân bang.
Nhận thấy đất Gia Định phần nhiều là dân tứ chiếng giang hồ, đời sống phức tạp, dễ gây ra tình trạng rối loạn về trật tự trị an, ông cho thành lập các đồn điền, dồn những kẻ du thủ vào đó, vừa tiện giúp đỡ họ mưu sinh, vừa dễ kiểm soát. Chẳng bao lâu, số dân đinh tại những nơi này tăng lên rõ rệt, có lần, vua Minh mạng đã ban dụ khen ngợi Tả Quân về việc này, vì sự gia tăng số cư dân kiểm tra được chứng tỏ chính sách an dân thực hiện có hiệu quả. Riêng đối với giặc cướp tại địa phương, “Duyệt đặt ra những điều luật ngăn cấm minh bạch, ra lệnh cho các quan chức sở tại mật báo quan biết những tên giặc cướp đó để bắt ngay chúng về trừng trị, lại ra thông cáo cho giặc cướp biết nếu chúng tự mình ra thú, thời sẽ được thu dụng. Từ đó trở đi, giặc cướp mới hết, dân cư nhờ thế mà được yên…” (Giá Sơn Kiều Oánh Mậu – Bản triều bạn nghịch liệt truyện – Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn – 1963 – trang 23).
Về bản thân nhà cai trị, cho dù là quan đại thần nhất phẩm triều đình, ông luôn tỏ ra khắt khe, nghiêm cẩn với chính mình. Năm 1825, một viên chức thuộc tào Binh tại Gia Định là Bùi Phụ Đạo lỡ tay đóng triện ngược trong sổ binh dâng về triều, vua Minh Mạng giao cho đình thần nghị xử, cho dù sơ suất đó không có gì là lớn lao. Được tin này, Tả quân cho rằng đó là lỗi mình không trông nom nên dâng biểu xin nhận tội. Vua Minh Mạng đã miễn trách và ban dụ rằng: “…Duyệt là bậc đại thần ở nơi bờ cõi, phàm trong hạt việc lợi thì làm, việc hại thì bỏ, người có tài thì tiến lên, người không tài thì bãi đi, khiến quan lại được xứng chức, nhân dân được yên nghiệp, như thế thì quan to sợ phép, quan nhỏ giữ liêm, ai là không biết khuyên răn, phép làm cho quan lại trong sạch như thế chẳng là đẹp tốt sao? Điều mà trẫm đòi ở Duyệt là ở đó, mà Duyệt làm được xứng chức cũng là ở đó…” (Đại Nam thực lục – tập 2 – NXB Giáo Dục – 2004 – trang 464).
Nhận xét về ông, những lời lẽ trên của vua Minh Mạng tưởng là đã quá đủ. Tinh thần trách nhiệm mà ông thể hiện đến nay vẫn còn có giá trị thực tiễn cho hậu thế. Bản tính ông thẳng thắn và trung thực nên có những việc làm không chính đáng của triều đình là ông phản ứng ngay.
Năm 1826 -1827, triều đình lấy cớ hai viên chức người Pháp là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đã xin về Pháp, không còn ai làm thông ngôn, yêu cầu các địa phương vận động giáo sĩ Pháp về Huế đảm trách giúp việc này. Trong chức trách của mình, Lê Văn Duyệt vận động hai giáo sĩ Gagelin và Odorico ra Huế; nhưng không lâu sau, ông được biết việc tìm thông ngôn chỉ là cái cớ, mục đích chính của triều đình Huế là giam lỏng hầu hết các giáo sĩ tại kinh thành, trong đó có cả Giám mục Taberd.
Nhận thấy có trách nhiệm trong chuyện này, ông vội vàng cho sao một số trong 14 bức thư mà chúa Nguyễn Ánh đã viết gửi cho Giám mục Bá Đa Lộc cùng một số giáo sĩ và viên chức Pháp (để yêu cầu hỗ trợ đánh nhà Tây Sơn) vào những thập niên cuối thế kỷ 18, rồi xin ra Huế bệ kiến nhà vua. Sau một thời gian chờ đợi, ông được vua Minh Mạng cho về triều để dự lễ lục tuần khánh tiết (mừng thọ 60 tuổi) của Thuận Thiên Hoàng Thái hậu.
Mấy tháng sau chuyến đi đó của ông, Giám mục Taberd và các giáo sĩ được thả về địa phương. Trong bức thư đề ngày 8.2.1828 đăng trên Tập san Truyền bá Đức tin (tập IV), Giám mục Taberd đã viết về ông như sau: “…Ông xứng đáng được người Pháp nhớ ơn… Ông được gọi là Thượng công, là người đầu tiên và cũng là người duy nhất trong số các quan lại được nhà vua nể sợ… Những quan lại khác cũng rất yêu mến ông, bởi vì họ biết rằng ông là người chính trực; bọn trộm cướp rất sợ ông vì chúng biết là rơi vào tay ông sẽ bị chém đầu, mà không có hi vọng gì dùng tiền bạc để mua chuộc ông, như đã mua chuộc nhiều người khác…” (Bulletin des Amis du Vieux Hue số 1 năm 1926, trang 2-3).
* Về mặt giao dịch với lân bang, ông là người đã mang lại cho triều đình Huế một uy tín lớn lao nhất trong con mắt các láng giềng. Năm 1813, trong lúc nội tình Chân Lạp (Campuchia ngày nay) rối ren, nước Xiêm (Thái Lan) có ý mang quân sang thực hiện những ý đồ định sẵn, ông thân hành dẫn hơn 13.000 quân đưa quốc vương Chân Lạp là Nặc Chân về nước. Đến nơi, ông ban ngay quân lệnh nghiêm cấm cướp phá dân lành, vỗ về trăm họ, quân Xiêm thấy thế vội rút về nước.
Từ đó, vua Chân Lạp xem triều đình Huế là chỗ dựa vững chắc trước sự đe dọa của những lân quốc khác. Hàng năm, cứ vào chiều 30 Tết, quốc vương Chân Lạp thân hành đến Sài Gòn để sáng mùng một Tết, cùng Tả Quân Lê Văn Duyệt tới Hành cung trong thành Gia Định vọng bái hoàng đế Việt Nam và sau đó ra Đồng Tập Trận (sau Pháp gọi là Plaine des Tombeaux: Đồng mả mồ) xem binh sĩ thao diễn. Đó cũng là dịp để Tả quân cho người lân quốc tỏ rõ sức mạnh quân sự của Việt Nam.
Tuy nhiên, không chỉ giao dịch với lân quốc trên thế mạnh, ông còn biết hành xử hợp với lẽ phải ở đời. Có lần Chân Lạp mang tặng nước ta 80 con voi, ông thấy nước bạn còn nghèo, lại không thể không nhận voi, nên tâu xin và được vua Gia Long cho xuất kho tặng lại họ một khoản tiền tương xứng với số voi nhận về.
Vào thời ấy, các sứ bộ Việt Nam đi sang Diến Điện (Miến Điện, nay là Myanmar) trở về kể rằng khi tiếp sứ, quốc vương nước này vẫn thường bắt đầu cuộc nói chuyện bằng câu hỏi: “Lê công có khỏe không?”. Điều này cho thấy oai danh ông khiến cả vùng Đông Nam Á nể phục.
* TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, ĐÔI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG
Sử chép rằng Tả quân Lê Văn Duyệt là người tính tình bộc trực đến độ ngang tàng. Năm 1800, trong một trận đánh, ông là Phó tướng của Nguyễn Văn Thành, trước khi xung trận, ông Thành rót rượu mời ông: “Uống rượu để thêm sức mạnh”, ông từ chối thẳng thừng: “Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt coi không trận dữ, cần chi phải uống rượu…” (Quốc triều chánh biên – Nhóm nghiên cứu Sử Địa Sài Gòn – 1972 – trang 37). Ông Thành cả thẹn, từ đấy hai người ít gần gũi nhau như trước.
Trong thời gian ông tại chức Tổng trấn Gia Định thành, dinh cơ của ông trải dài từ đường Thái Văn Lung ngày nay đến sau dinh Thống Nhất. Tư thất phu nhân Tả quân, bà Đỗ Thị Phẫn (vốn là một cung nữ, được vua Gia Long thưởng cho ông để làm bầu bạn), nằm trong khuôn viên dinh Thống Nhất ngày nay. Vườn hoa nơi ông đến để ngắm hoa, người đương thời gọi là Vườn Ông Thượng (thời Pháp thuộc là vườn Bồ-Rô, sau là vườn Tao Đàn, nay là Công viên văn hóa thành phố) vì danh nghĩa Thượng công (ông quan lớn Thượng thư) là tiếng xưng hô phổ biến nhất trong dân gian.
Cuộc sống thanh đạm, bình dị của ông được George Finlayson, một thành viên trong phái bộ Crawfurd của Anh đến Sài Gòn năm 1822, miêu tả trong một bút ký kể lại lần được diện kiến ông và được ông cho xem trận voi hổ quyết đấu: “…Tư thất của ông to lớn nhưng giản dị, cả bên trong lẫn bên ngoài đều không có trang trí gì… Quan Tổng trấn ngồi ở cuối phòng, trên một cái sập rất đơn giản, rộng khoảng 4m2, có trải chiếu và đặt một, hai chiếc gối tựa. Trên một cái sập thấp hơn, kê ở phía trái, là chỗ ngồi của ông Phó Tổng trấn, một cụ già dung mạo tao nhã, có lẽ tuổi đã quá thất tuần… Quan Tổng trấn, như lời thiên hạ kể, là một hoạn quan, vẻ mặt của ông xác định điều đó. Ông vào khoảng 50 tuổi (năm 1822, ông Duyệt 59 tuổi – LN), có cái nhìn thông minh và một vẻ năng động mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần. Gương mặt ông tròn trịa và hiền lành, không râu và có những nếp nhăn. Trang phục của ông chẳng những giản dị mà còn có vẻ thiếu chăm chút, như áo quần của những kẻ nghèo khổ nhất…”
* CHÚT HUYỀN SỬ VỀ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT
Sau khi Tả quân Lê Văn Duyệt qua đời vào tháng 7 âm lịch năm 1832, trong con mắt người dân Sài Gòn – Gia Định xưa, ông là hiện thân của sự oai linh và hiển hách. Năm 1835, cuộc nổi dậy do người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi và các tướng sĩ tại thành Phiên An khởi xướng bị triều đình Huế đánh tan, dù mất đã lâu, ông vẫn bị triều đình khép vào 7 tội trảm (xử chém), 2 tội giảo (treo cổ), ngôi mộ ở lăng Ông ngày nay bị xiềng lại và dựng tấm bia khắc tám chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Nơi chịu tội của tên hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt).
Sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện kể rằng: “Mộ của Duyệt ở bên thành Gia Định từ Minh Mạng năm 16 (1835) trở đi, những lúc trời âm u, đêm yên tĩnh, có tiếng ma quỷ khóc than, hoặc tiếng ồn ào người ngựa; dân cư nơi đó không dám lại gần, người đi đường đều dời lối khác để tránh đi. Đến lúc ấy, vua sai quan địa phương đem giấu bỏ tấm bia và cho con cháu tự ý sửa chữa ngôi mộ, thì tiếng ma quỷ trong ban đêm mới dứt…” (Sđd – trang 67, 69).
Những câu chuyện truyền tụng đó có thể không có thật về mặt khoa học, nhưng về mặt tâm linh, nó phản ảnh sự đồng cảm của cư dân đất Gia Định trước nỗi oan khuất của một lão thần từng vào sinh ra tử, góp công lớn trong việc xây dựng vương triều Nguyễn, nhưng chỉ vì sự u mê, hẹp hòi của đấng quân vương mà sau khi mất rồi, vẫn còn bị đối xử như một kẻ tội đồ…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.