Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Toàn văn:Thông cáo của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc

Thông cáo của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc<Toàn Văn>

Website của Bộ Ngoại giao Trung Quốc mới đây vừa đăng thông cáo nêu rõ toàn bộ quan điểm và lập trường của Trung Quốc về những sự kiện quanh việc nước này đặt giàn khoan Hải dương 981 ở Biển Đông.
Những tuyên bố trong bản thông cáo nhất quán với những cáo buộc mà Trung Quốc đã đưa ra đối với Việt Nam trong những tuần lễ vừa qua. Nhưng riêng ở Mục IV khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa theo cách gọi của Trung Quốc), ngoài việc viện dẫn Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, Trung Quốc còn dẫn ra hai tài liệu đáng lưu ý mà họ nói rằng của phía Việt Nam khẳng định chủ quyền lãnh hải Trung Quốc.
Thứ nhất là Tập Bản Đồ do Cục Đo Đạc và Bản Đồ - Phủ Thủ Tướng ấn hành năm 1972 và thứ hai sách Địa Lý Lớp Chín Phổ Thông Toàn Tập do Nhà Xuất Bản Giáo Dục ấn hành năm 1974.
Theo tài liệu mà Trung Quốc đưa ra, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được chú thích là ‘Tây Sa’ và ‘Nam Sa’ trong Tập Bản Đồ, và trong sách Địa Lý có đoạn viết rằng: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn…làm thành một bức ‹‹ trường thành ›› bảo vệ lục địa Trung quốc.”
Toàn văn Thông cáo:
Các hoạt động của HYSY 981 khoan: khiêu khích của Việt Nam và vị trí của Trung Quốc
2014/06/08
I. Các hoạt động của giàn khoan HYSY 981
Trên 02 tháng 5 năm 2014, HYSY 981 giàn khoan của công ty Trung Quốc bắt đầu hoạt động khoan của nó bên trong vùng tiếp giáp lãnh hải của quần đảo Tây Sa của Trung Quốc (xem phụ lục 1/5 cho các vị trí hoạt động) với mục đích thăm dò dầu khí. Với giai đoạn đầu của các hoạt động hoàn thành, giai đoạn thứ hai bắt đầu vào ngày 27 tháng Năm. Hai địa điểm hoạt động là 17 hải lý tính từ cả hai đảo Zhongjian Đảo Tây Sa của Trung Quốc và đường cơ sở của lãnh hải của quần đảo Tây Sa, nhưng khoảng 133-156 hải lý từ bờ biển của lục địa Việt Nam.
Các công ty Trung Quốc đã tiến hành thăm dò ở các vùng nước liên quan trong 10 năm qua, bao gồm cả các hoạt động địa chấn, khảo sát trang web tốt. Các hoạt động khoan được thực hiện bởi HYSY 981 lần này là sự tiếp nối của quá trình bình thường của cuộc thám hiểm, và cũng rơi trong chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc.
II. Hành động khiêu khích của Việt Nam
Ngay sau khi Trung Quốc bắt đầu hoạt động, Việt Nam đã gửi một số lượng lớn các tàu, bao gồm tàu ​​vũ trang, trang web, bất hợp pháp và mạnh mẽ làm gián đoạn các hoạt động của Trung Quốc và đâm vào tàu chính phủ Trung Quốc hộ tống và các nhiệm vụ an ninh ở đó. Trong khi đó, Việt Nam cũng gửi người nhái và các đại lý dưới nước khác đến khu vực, và giảm số lượng lớn các trở ngại, bao gồm cả lưới đánh cá và các đối tượng nổi, trong các vùng nước. Tính đến 5 giờ chiều ngày 7 tháng 6, đã có bao nhiêu là 63 tàu thuyền Việt Nam trong khu vực ở đỉnh cao, cố gắng vượt qua hàng rào của Trung Quốc và đâm vào tàu của chính phủ Trung Quốc với tổng số 1.416 lần.
Các hành động nói trên của phía Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng khi chủ quyền của Trung Quốc, quyền chủ quyền và quyền tài phán, mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự an toàn của nhân viên Trung Quốc và các giàn khoan HYSY 981, và vi phạm tổng của pháp luật quốc tế liên quan, bao gồm cả Điều lệ Liên Hợp Quốc, Công ước 1982 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và 1988 ước ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải của Danh mục chính và Nghị định thư về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn của nền tảng cố định Nằm trên Continental thời hạn sử dụng. Hành động này cũng làm suy yếu sự tự do và an toàn hàng hải trong vùng biển này, và bị hư hỏng hòa bình và ổn định trong khu vực.
Trong khi bất hợp pháp và mạnh mẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các công ty Trung Quốc trên biển, Việt Nam cũng tha thứ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở nhà. Vào giữa tháng, hàng ngàn yếu tố vô luật lệ tại Việt Nam tiến hành đánh đập, đập phá, cướp bóc và đốt phá với các công ty của Trung Quốc và một số nước khác. Họ tàn nhẫn giết chết bốn người Trung Quốc và làm bị thương hơn 300 người khác, và gây thiệt hại tài sản nặng nề.
III. Phản ứng của Trung Quốc
Các vùng biển giữa quần đảo Tây Sa của Trung Quốc và bờ biển đất liền Việt Nam vẫn chưa được phân định. Hai bên chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này. Cả hai bên đều có quyền yêu cầu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS. Tuy nhiên, các nước sẽ không bao giờ trở thành đặc khu kinh tế và thềm lục địa Việt Nam không có vấn đề nguyên tắc được áp dụng trong việc phân định.
Khi đối mặt với hành động khiêu khích của Việt Nam trên biển, Trung Quốc thực hiện kiềm chế tuyệt vời và mất biện pháp phòng ngừa cần thiết. Tàu chính phủ Trung Quốc đã được phái đến các trang web với mục đích bảo đảm an toàn hoạt động, mà có hiệu quả giữ gìn trật tự sản xuất và hoạt động trên biển và an toàn hàng hải. Trong khi đó, kể từ 02 Tháng 5, Trung Quốc đã tiến hành hơn 30 thông tin liên lạc với Việt Nam ở các cấp độ khác nhau, yêu cầu phía Việt Nam để ngăn chặn sự gián đoạn bất hợp pháp của nó. Thật đáng tiếc, tuy nhiên, sự gián đoạn bất hợp pháp của phía Việt Nam vẫn đang tiếp tục.
IV. Quần đảo Tây Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc
1. Quần đảo Tây Sa là một phần vốn có của lãnh thổ Trung Quốc, trong đó không có tranh chấp.
Trung Quốc là người đầu tiên khám phá, phát triển, khai thác và thực hiện thẩm quyền đối với quần đảo Tây Sa. Trong triều đại Bắc Tống (960-1126 SCN), chính phủ Trung Quốc đã thành lập thẩm quyền đối với quần đảo Tây Sa và gửi lực lượng hải quân để tuần tra các vùng biển đó. Năm 1909, Tư lệnh Li Zhun của lực lượng hải quân Quảng Đông của nhà Thanh đã dẫn đầu một nhiệm vụ thanh tra quân sự trên quần đảo Tây Sa và tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc bằng cách cẩu cờ và bắn một loạt đạn trên đảo Yongxing. Năm 1911, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc công bố quyết định đặt quần đảo Tây Sa và vùng biển lân cận của họ thuộc thẩm quyền của Ya Quận đảo Hải Nam.
Nhật Bản xâm lược và chiếm đóng quần đảo Tây Sa trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi Nhật đầu hàng vào năm 1945, phù hợp với một loạt các văn bản quốc tế, chính phủ Trung Quốc đã cử quan chức cấp cao lên máy bay tàu quân sự đến quần đảo Tây Sa trong tháng 11 năm 1946 để tổ chức lễ tiếp nhận các đảo, và một tấm bia đá được dựng lên để tưởng nhớ bàn giao và quân đội đồn trú ở đó sau đó. Do đó quần đảo Tây Sa, mà đã từng bị chiếm đóng bất hợp pháp của một quốc gia nước ngoài, đã được trả lại thẩm quyền của chính phủ Trung Quốc.
Năm 1959, chính phủ Trung Quốc thành lập Văn phòng Quản trị cho Tây Sa, Trung Sa và quần đảo Nam Sa. Vào tháng Giêng năm 1974, quân đội và nhân dân Trung Quốc lái xe quân đội xâm lược của chính quyền Sài Gòn của miền Nam Việt Nam từ đảo Shanhu và đảo Ganquan của quần đảo Tây Sa và bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1992 và công bố các điểm cơ sở và đường cơ sở lãnh hải của quần đảo Tây Sa vào năm 1996, cả hai đều khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa và mức độ của các vùng lãnh hải của các đảo. Trong năm 2012, chính phủ Trung Quốc thành lập các phòng ban khác nhau của thành phố Tam Sa trên đảo Yongxing đảo Tây Sa.
2. Trước năm 1974, không có chính phủ Việt Nam liên tiếp đã từng thách thức chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa. Việt Nam đã chính thức công nhận quần đảo Tây Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc từ thời cổ đại. Vị trí này đã được phản ánh trong báo cáo của chính phủ và các ghi chú của mình cũng như tờ báo của họ, bản đồ và sách giáo khoa.
Trong một cuộc họp với đại sứ d'affaires quảng cáo tạm thời Li Zhimin của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam vào ngày 15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam Ung Văn Khiêm đã long trọng tuyên bố rằng, "theo số liệu của Việt Nam, quần đảo Tây Sa và Nam Sa Quần đảo là phận lịch sử của lãnh thổ Trung Quốc. " Lê Lộc, Quyền Vụ trưởng Vụ châu Á của Bộ Ngoại giao Việt Nam, người đã có mặt, đặc biệt là trích dẫn số liệu của Việt Nam và chỉ ra rằng, "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã là một phần của Trung Quốc tại thời điểm nhà Tống."
Trên 04 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã ban hành một tuyên bố (xem Phụ lục 2/5), nói rằng chiều rộng của lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và làm cho nó rõ ràng rằng "quy định này áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm cả quần đảo Tây Sa ... ". Trên 06 tháng chín, NHAN DAN, tờ báo chính thức của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, được công bố trên trang chủ của nó đầy đủ các văn bản khai báo của chính phủ Trung Quốc về lãnh hải của Trung Quốc. Vào ngày 14 tháng Chín, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của chính phủ Việt Nam đã gửi một công hàm ngoại giao (xem phụ lục 3/5) để Thủ tướng Chu Ân Lai của Hội đồng Nhà nước Trung Quốc, long trọng tuyên bố rằng "chính phủ của nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam công nhận và hỗ trợ tuyên bố của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về quyết định của mình liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc được thực hiện trên 04 tháng 9 năm 1958 "và" chính phủ của nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam tôn trọng quyết định này ".
Trên 09 tháng 5 năm 1965, chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã ban hành một tuyên bố với tham chiếu đến các chỉ định bởi chính phủ Mỹ của "vùng chiến sự" của các lực lượng vũ trang Mỹ tại Việt Nam. Nó nói, "Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson được toàn bộ Việt Nam, và các vùng biển lân cận mà mở rộng khoảng 100 dặm từ bờ biển của Việt Nam và một phần của lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc trong quần đảo Tây Sa của nó là" vùng chiến sự "của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ ... trong mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam và các nước láng giềng ... "
World Atlas in tháng 5 năm 1972 của Cục Khảo sát và Bản đồ thuộc Văn phòng Thủ tướng của Việt Nam được chỉ định quần đảo Tây Sa theo tên Trung Quốc của họ (xem Phụ lục 4/5). Sách giáo khoa địa lý cho học sinh lớp chín công bố bởi báo chí giáo dục của Việt Nam năm 1974 mang trong nó một bài học mang tên "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" (xem Phụ lục 5/5). Nó đọc, "Các chuỗi các hòn đảo từ Nam Sa và quần đảo Tây Sa đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và quần đảo Chu Sơn ... được hình thành như một cây cung và tạo thành một bức tường lớn bảo vệ lục địa Trung Quốc."
Nhưng bây giờ chính phủ Việt Nam đi lại từ nó bằng cách tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Tây Sa của Trung Quốc. Đó là một vi phạm trắng trợn các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, bao gồm các nguyên tắc estoppel, và các chỉ tiêu cơ bản trong quan hệ quốc tế.
V. đúng giải quyết tình hình
Trung Quốc là một lực lượng trung thành cho việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông và thúc đẩy hợp tác và phát triển giữa các nước trong khu vực. Trung Quốc kiên quyết duy trì mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc, các chỉ tiêu cơ bản của quan hệ quốc tế và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Ít nhất Trung Quốc muốn là bất kỳ bất ổn trong khu vực lân cận.
Trung Quốc muốn có quan hệ tốt với Việt Nam, nhưng có những nguyên tắc mà Trung Quốc không thể từ bỏ. Các kênh liên lạc giữa Trung Quốc và Việt Nam đang mở. Trung Quốc kêu gọi Việt Nam cần ghi nhớ các lợi ích tổng thể của các mối quan hệ song phương và hòa bình và ổn định ở Biển Đông, tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc, quyền chủ quyền và quyền tài phán, ngay lập tức ngừng tất cả các hình thức của sự gián đoạn của các hoạt động của Trung Quốc và thu hồi tất cả các tàu và nhân từ các trang web, để giảm bớt căng thẳng và khôi phục lại yên bình trên biển càng sớm càng tốt. Trung Quốc sẽ tiếp tục nỗ lực của mình để giao tiếp với Việt Nam nhằm giải quyết đúng tình hình hiện nay.
VI. Phụ lục
Phụ lục 1/5: Bản đồ các địa điểm hoạt động của các công ty Trung Quốc(http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/W020140608617876524304.jpg)
Phụ lục 2/5: Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải của Trung Quốc được công bố trên 04 tháng 9 năm 1958(http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/W020140608617876545470.jpg)
Phụ lục 3/5: Những lưu ý gửi trên 14 tháng chín năm 1958 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam Phạm Văn Đồng đến Thủ tướng Chu Ân Lai của Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa(http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/W020140608617876570179.zip)
Phụ lục 4/5: Bìa của bản đồ thế giới in tháng 5 năm 1972 của Cục Khảo sát và Bản đồ thuộc Văn phòng Thủ tướng của Việt Nam, và các trang trên Philippines, Malaysia, Indonesia và Singapore.(http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/W020140608617876618052.zip)
Phụ lục 5/5: Bài học mang tên "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" trong sách giáo khoa địa lý cho học sinh lớp chín công bố bởi báo chí giáo dục của Việt Nam năm 1974(http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/W020140608617876635295.zip)
Nguồn:http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1163264.shtml

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.