Tập Cận Bình muốn thống trị toàn cầu nhưng đã tính toán nhầm
Mai Hưng dịch
(VNTB) - Trận cuối cùng trong cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ dường như đã cận kề.
Nguồn bản gốc: Xi Jinping Wanted Global Dominance. He Overshot.
https://www.nytimes.com/2019/05/07/opinion/xi-trump-trade-war-china-leadership.html
VNTB gửi BVN bản dịch
(VNTB) - Trận cuối cùng trong cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ dường như đã cận kề.
Tổng thống Trump, đặt cược bằng tiền thật – đó là sức mạnh của Hoa Kỳ – rõ ràng đang giữ thế thượng phong, và những nhượng bộ mà Chủ tịch Tập Cận Bình có thể sẽ phải thực hiện sẽ không chỉ là phỉnh đánh bạc. Khi - nếu thỏa thuận rốt cuộc được đưa ra, Tổng thống Trump chắc chắn sẽ tuôn ra các tweet đầy khoe khoang, một phần là để củng cố sự ủng hộ của cử tri cho nhiệm kỳ thứ hai, giữa những rắc rối cá nhân và chính sách. Đối với ông Tập, bất kỳ thỏa thuận đều có thể có nghĩa là một sự mất thể diện rất nghiêm trọng.
Ông Tập thâu tóm quyền lực khi Trung Quốc vẫn đang tiếp tục phát huy cái gọi là phép màu kinh tế (và Hoa Kỳ vẫn sa lầy trong hậu quả của cuộc suy thoái kinh tế 2008-9). Ông trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (C.C.P.) vào cuối năm 2012 và là chủ tịch của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào đầu năm 2013. Chiến dịch chống tham nhũng của ông đã ngay lập tức trở nên rộng khắp. Ông bảo vệ “Trung Hoa mộng”, một viễn kiến mơ hồ về sự thịnh vượng, sức mạnh và hạnh phúc của đất nước và người dân TQ, viễn kiến này dường như đã khích động nhiều người dân. Việc ông Tập đề xuất với Tổng thống Barack Obama nhằm thiết lập một “Mô hình mới về Quan hệ của một đại cường” chỉ có thể làm hài lòng đa số người Hán với những hoài niệm đế quốc quá vãng.
Nhưng đó chỉ là những pha tung hứng hay phi dao đơn giản trong rạp xiếc, được thực hiện ở một đất nước không có sự đối lập nào được lắng nghe và cấm đoán những “đàm tiếu” về chính quyền TQ. Mặt khác, cuộc chiến thương mại Hoa – Mỹ là trường hợp thực tế đầu tiên để đánh giá khả năng lãnh đạo của ông Tập. Và màn trình diễn của ông Tập dường như không được thành công lắm, thậm chí ngay cả khi người ta không tính đến những thất bại liên quan đến cuộc chiến thương mại Hoa - Mỹ này.
Điều đầu tiên và quan trọng nhất, là ông Tập đã hoàn toàn thất bại trong việc xử lý mối quan hệ Hoa - Mỹ. Điều này trái ngược với mọi nhà lãnh đạo Trung Quốc kể từ khi thành lập nhà nước cộng sản hồi năm 1949, những nhà lãnh đạo TQ trong quá khứ đều thừa nhận tầm quan trọng tối cao của những mối quan hệ đó, và đã làm tất cả cải thiện chúng - và đã gặt hái được những lợi ích to lớn.
Vào năm 1971, Mao đã kiến tạo nền ngoại giao bóng bàn để làm tan băng, và Tổng thống Nixon đã ủng hộ ông ta trong cuộc chiến chống Liên Xô.
Đặng Tiểu Bình đã đi khắp nơi để tán tỉnh lấy lòng Hoa Kỳ, và, vào năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter đã chuyển sự công nhận đối với Trung Quốc từ Đài Bắc sang Bắc Kinh.
Trong những năm 1980, các nhà lãnh đạo Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương đã mời Milton Friedman và các nhà kinh tế Mỹ khác đến thăm TQ và tranh thủ những khuyến nghị tham vấn của họ; sau những diễn biến ấy, công nghệ và tư bản của Mỹ bắt đầu chảy vào Trung Quốc.
Năm 1997, Giang Trạch Dân có chuyến công du tám ngày ở Mỹ, khi ở Williamsburg - Virginia, ông ta đã đội một chiếc mũ ba góc biểu trưng của thời kỳ thực dân.
Năm 2001, TT Bill Clinton lúc đó đã giành cho Trung Quốc một cú hích mạnh mẽ để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Những năm Hồ Cẩm Đào nắm quyền, 2003 - 2013, chứng kiến việc Trung Quốc đã khai thác sự cởi mở (và cả ngây thơ nữa) của nước Mỹ đầy khéo léo. Những mặt hàng nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc đã tạo ra một sự thâm hụt thương mại song phương không kiểm soát nổi đối với Hoa Kỳ. Các viện Khổng Tử, một mạng lưới các trường ngôn ngữ kiêm các cơ quan gây tạo ảnh hưởng, bắt đầu bén rễ trong các trường đại học và trung học của Mỹ. Hiện nay, đã có hơn 100 viện như thế trên khắp nước Mỹ. Các nhà đầu tư Trung Quốc tràn ngập Thung lũng Silicon bằng số tiền huy động được trên các thị trường tài chính Mỹ - sau đó lặng lẽ ăn cắp công nghệ tiên tiến của Mỹ và đưa công nghệ tiên tiến ấy vào trung tâm công nghệ cao Trung Quốc.
Nhưng ông Tập lại là nhà lãnh đạo cứng rắn đầy hung hăng. Dưới thời ông Tập, những đại ngôn chống Mỹ được lan truyền trên các phương tiện truyền thông chính thức. Chính quyền Trung Quốc đã công khai bày tỏ ý muốn thách thức sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Châu Á.
TQ đã có những động thái mạnh mẽ đối với Đài Loan và Biển Đông. TQ đã cho tàu chiến diễu hành qua lãnh hải của Mỹ ở ngoài khơi Alaska. (TQ tuyên bố rằng chỉ thực hiện một quyền đã được quốc tế công nhận về việc “qua lại vô hại”, nhưng động thái rõ ràng là một màn trình diễn quân sự).
Nhà cầm quyền Bắc Kinh cố gắng hợp tác với các thành viên của cộng đồng người Trung Quốc ở hải ngoại, với hy vọng rằng sẽ phát triển một mạng lưới trợ giúp công cuộc xâm nhập chính trị vào các quốc gia khác và chuyển giao (mà thực chất là đánh cắp – người dịch) công nghệ cao từ các quốc gia này về cho TQ.
Để đạt được mục đích này TQ đã sử dụng cả hai kế hoạch công khai, ví như Kế hoạch tìm kiếm 1000 tài năng, một chương trình săn đầu người chính thức, và các chiến thuật bí mật được giám sát bởi cỗ máy đầy uy lực của C.C.P.- Mặt trận Thống nhất.
Những nỗ lực này đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo cho một số người Mỹ. Trong hai năm 2017 và 2018, hai nhóm học giả tinh hoa và các cựu quan chức chính quyền Hoa Kỳ đã lên tiếng ủng hộ một sự thay đổi quan điểm chính trị cơ bản của Mỹ về Trung Quốc.
Các thành viên của hai nhóm này là những người ôn hòa và hầu hết thân thiện với Trung Quốc. Một số khuyến nghị của họ phù hợp với quan điểm diều hâu của chính quyền Trump, coi Trung Quốc là mối đe dọa an ninh và kẻ thù số một của Mỹ. Ông Tập, dường như không biết gì về sự thay đổi lớn lao này, vì đã không được chuẩn bị gì khi TT Trump tấn công Trung Quốc bằng một cuộc chiến thuế quan.
Cuộc cạnh tranh này hiện đang có một hiệu lực cảnh báo đối với những nơi khác ở Châu Á, Úc, New Zealand và Châu Âu.
Sau hội nghị thượng đỉnh tại Brussels vào tháng trước, Trung Quốc đã đồng ý trao cho các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu tiếp cận thị trường “cải thiện”, chấm dứt việc bắt buộc chuyển giao công nghệ và thảo luận về khả năng cắt giảm trợ cấp nhà nước cho các công ty Trung Quốc, điều mà các chính phủ khác cho rằng đã tạo ra một lợi thế cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù được trình bày bằng những ngôn từ ôn hòa, đầy tính chất tương nhượng trong tuyên bố chung, những nhượng bộ này là một trở ngại rõ ràng cho Trung Quốc và sẽ dập tắt những tham vọng toàn cầu của họ.
Tại sao tất cả những điều này lại xảy ra dưới thời của ông Tập? Lịch sử gợi ý một câu trả lời.
Vào cuối những năm 1950, Mao bắt đầu thách thức sự lãnh đạo của Liên Xô đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, khi đó vốn đang là một thế lực kiêu hùng hy vọng lật đổ trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo. Mao cũng tìm kiếm một sự thống trị toàn cầu, phù hợp với quan niệm truyền thống của TQ cho rằng hoàng đế của Đế chế Trung Hoa là người cai trị hợp pháp đối với toàn “thiên hạ” (tian xia” = (天下), tức là tất cả mọi thứ dưới gầm trời này. Nhưng Mao đã hành động một cách thái quá. Trung Quốc lúc đó chưa đủ mạnh để thực hiện tham vọng này. Quyết định của Liên Xô về việc chấm dứt các chương trình viện trợ cho Trung Quốc và rút các cố vấn khoa học và công nghệ của họ về nước là một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế xã hội chủ nghĩa TQ đang mới hình thành.
Giống như Mao với Liên Xô, ông Tập có thể đã thách thức sự lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ một cách quá thô lỗ và quá sớm.
Khiếm khuyết lớn thứ hai của ông Tập là sự thất bại trong việc hoạch định một tập hợp các chính sách rõ ràng để ngăn chặn sự suy yếu kéo dài của nền kinh tế Trung Quốc sau nhiều năm phát triển ngoạn mục.
Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc trong năm 2018 là mức tăng trưởng yếu nhất trong 28 năm qua. Số liệu thống kê trong quý I của năm nay (2019) là 6,4%, so với mức cao kỷ lục 15,4% của cùng kỳ năm 1993. Ngay đến cả con số tăng trưởng này (6,4%,) cũng sẽ là điều ghen tị của nhiều quốc gia phương Tây, nhưng sự suy giảm này sẽ khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải lo ngại, vì nó cho thấy một cách trực quan các vấn đề mang tính cấu trúc của quốc gia này - đáng chú ý là dân số bị già đi một cách nhanh chóng, lực lượng lao động bị co lại và tỷ lệ tổng nợ trên GDP đạt mức gần 300% trong quý I của năm 2018. Ngân hàng Nomura của Nhật Bản đã ước tính rằng việc không trả được nợ trái phiếu có mệnh giá bằng đồng Nhân dân tệ đã tăng gấp bốn lần trong năm 2017 và 2018.
Chịu sức ép nặng nề về mặt nhân khẩu học và nợ, Trung Quốc khó có thể bành trướng thông qua tăng đầu tư tư nhân và tiêu dùng. Bởi vì nền kinh tế của TQ đã có một số khả năng dư thừa khổng lồ (xin hãy nghĩ về việc các thành phố ma mới được xây dựng), cho nên điều tồi tệ hơn là những kích thích của chính quyền không hiệu quả lắm.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, năm 2008, phải mất một nghìn tỷ nhân dân tệ để tạo ra một nghìn tỷ nhân dân tệ sản lượng kinh tế; vào năm 2017 tỷ lệ này là 3,5:1.
Tuy nhiên, ông Tập đã chẳng làm được gì để giải quyết các vấn đề mang tính cấu trúc này.
Bằng chứng về các vấn đề nhân khẩu học nghiêm trọng đã trở nên rõ ràng ngay từ cuối những năm 2000, nhưng đến năm 2016, ông Tập vẫn chỉ thay thế chính sách một con bằng chính sách hai con. Quá ít, quá muộn. Số trẻ sơ sinh của Trung Quốc mỗi năm đã giảm kể từ khi có những thay đổi này. Tổng số trẻ sơ sinh của năm 2018 là thấp nhất kể từ năm 1961, năm TQ trải qua nạn đói khủng khiếp.
Ông Tập đã phê duyệt một gói kích thích kinh tế vào năm 2015 lớn hơn 25% so với kế hoạch khẩn cấp của người tiền nhiệm vào năm 2009 như một cách đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Và một lần nữa, chỉ trong tháng 1 và tháng 2 của năm nay, ngay cả khi ông Tập đã thể hiện sự ủng hộ suông đối với sự cần thiết phải dần dần loại bỏ sự hỗ trợ của nhà nước đối với nền kinh tế, chính quyền vẫn cung cấp các khoản vay và tài trợ mới vượt quá quy mô của gói kích cầu cho cả năm 2015, theo một bài báo trên tạp chí Forbes.
Chỉ trích thứ ba đối với ông Tập là dưới thời ông, Trung Quốc đã tài trợ hoặc đã bỏ qua các hoạt động của các công dân và thực thể Trung Quốc trên toàn thế giới, điều này đã làm tổn hại danh tiếng quốc tế đồng thời cũng làm suy giảm nền tảng, cấu trúc đạo đức của chính họ.
Xin lấy một ví dụ trong lĩnh vực tài sản trí tuệ chẳng hạn. Hoa Kỳ có được những bằng chứng xác thực rằng chính sách của riêng Huawei, một công ty công nghệ cao hàng đầu của Trung Quốc, là thưởng cho những nhân viên nào đánh cắp được tài sản trí tuệ. Và, như tôi trước đây đã từng viết, một chính sách như vậy được khuyến khích, thậm chí còn là bắt buộc, theo Luật Tình báo Quốc gia Trung Quốc được thông qua trong năm 2017.
Theo truyền thống, nhà nước lý tưởng của Trung Quốc là một nhà nước Nho giáo tuân thủ các chuẩn mực đạo đức và hành vi nghiêm ngặt. Và cho dù là ông Tập mạnh tay đối với tệ nạn tham nhũng ở quốc nội, ông Tập lại đi khuyến khích tinh thần đạo đức xấu xa ở nước ngoài; viễn kiến của ông về Trung Quốc là một quốc gia của những tên trộm cắp yêu nước.
Kết cục là mọi người Trung Quốc đều bị mất thể diện, và giờ đây những người vô tội ở nước ngoài có thể bị sa thải vì liên quan đến tội phạm.
Ông Tập được coi là nhà lãnh đạo Trung Quốc quyền lực nhất kể từ thời Mao. Năm ngoái, sau khi Hiến pháp được sửa đổi, ông ta có thể làm lãnh đạo trọn đời - trừ khi những thất bại nghiêm trọng về lãnh đạo của ông ta làm cho các địch thủ quốc nội có đủ lý do để buộc ông từ chức.
https://www.nytimes.com/2019/05/07/opinion/xi-trump-trade-war-china-leadership.html
VNTB gửi BVN bản dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.