Nhân ngày Báo chí Việt Nam 21-6-2019 – Hơn 40 năm vui buồn nghề báo
Lê Phú Khải
Tác giả gửi BVN
Tôi rời nghề giáo làng bước vào nghề báo từ năm 1974, đến nay vừa tròn 45 năm. Làm đủ mọi thể loại báo chí, từ báo hình (truyền hình), báo nói (phát thanh), đến báo viết, báo mạng (internet)… Có nhiều năm đi thường trú ở vùng đất xa xôi Đồng bằng sông Cửu Long… Từ viết cho báo “lề phải” rồi chuyển sang “lề trái”, từng được nhiều giải thưởng báo chí của nhà nước, rồi bỗng trở thành “thế lực thù địch”!!!
Trong cái thời gian gấp ba lần cuộc lưu lạc của nàng Thuý Kiều ấy, thật lắm kỷ niệm buồn vui… Nếu viết ra thì cũng có thể được vài trăm trang sách. Thôi thì nhân ngày Nhà báo Việt Nam 21 tháng 6, tôi viết ra đây 3 kỷ niệm, bảo nó là vui hay buồn cũng được, để tặng các đồng nghiệp trẻ rất tài ba của tôi đang hành nghề ở thời công nghệ 4.0 này! Những câu chuyện này đều xảy ra trong thời làm báo “lề phải”…
Câu chuyện thứ nhất: “Ba thằng bồi bút mới bằng một con bồi bàn”
Đó là vào đầu năm 1976, Quốc hội thống nhất họp phiên đầu tiên sau ngày 30 tháng 4.1975. Tôi vô Quốc hội để tìm gặp luật sư Ngô Bá Thành. Gặp bả, tôi nói: Thưa luật sư, tôi vừa làm một cuộc toạ đàm thu thanh cho Đài Tiếng nói Việt Nam với các đại biểu Quốc hội là đoàn trí thức Nam bộ. Tôi đã toạ đàm thu thanh được với giáo sư Lý Chánh Trung, luật sư Nguyễn Long, các anh Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi… Rất tiếc là chỉ thiếu có luật sư Ngô Bá Thành. Vậy tôi xin phép đưa tên luật sư Ngô Bá Thành vào lời giới thiệu trong đoàn trí thức Nam bộ ở cuộc toạ đàm đó… Tôi chưa nói hết câu thì bà Ngô Bá Thành đã cười ngặt nghẽo và nói: Tôi mà Nam bộ cái gì! Tôi là con mẹ Bắc kỳ sinh ra ở phố Nhà Thương Chó Hà Nội đây… Anh muốn đưa tôi vào đâu cũng được!!! (Phố Nhà Thương Chó là phố Yersin, xưa kia người Pháp nhốt chó ở đó để nghiên cứu chữa bệnh chó dại, nên chết tên Phố Nhà Thương Chó).
Tôi đang mừng vì sự “hào phóng” của bà Ngô Bá Thành thì thấy ồn ào ở một góc hành lang Quốc hội giờ giải lao. Thì ra các đồng nghiệp của tôi đang tổ chức bốc thăm (!). Số là, thời đó là thời bao cấp, nên mỗi vị đại biểu Quốc hội được một cái phiếu mua hàng. Hàng quý và giá rất rẻ. Lúc ấy phổ biến câu “Mua như cướp, bán như cho”! Trong các hàng được mua có cả áo len, thời đó là quý giá nhất. Các chị em là nhân viên phục vụ ở Quốc hội cũng được mỗi người một phiếu. Không hiểu vì lẽ gì mà ba nhà báo mới được phát một phiếu, nên các đồng nghiệp của tôi phải tổ chức bốc thăm! Bỗng một đồng nghiệp ở Thông tấn xã Việt Nam nổi nóng quát lớn: Thế này thì ra, ba thằng bồi bút mới bằng một con bồi bàn!!! Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn quá!
Thế là đến tai ông Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội. (Tôi nghĩ là an ninh báo cáo). Ngay lập tức các phóng viên có mặt ở Quốc hội hôm đó được thông báo là cuối giờ chiều ở lại để họp báo với Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh. Ông Trường Chinh đã thay mặt Quốc hội xin lỗi các nhà báo và biếu mỗi người một phiếu mua hàng. Cái thời đó văn hoá xin lỗi còn giữ được. Còn bây giờ…
Câu chuyện thứ hai: “Không bị cắt lưỡi là may!”
Đó là vào mùa lũ lớn năm 1991. Đã xế chiều mà Phó giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh Tiền Giang còn đến rủ tôi và nhà báo Hải Bình ở Phân xã Tiền Giang của Thông tấn xã Việt Nam đi gấp lên huyện Cái Bè. Anh nói: Hai anh đều là nhà báo của Trung ương thường trú ở địa phương, mong các anh la lớn lên để các vị lãnh đạo tỉnh và bà con biết là năm nay lũ rất lớn, phải đề phòng không thì vụ lúa này mất trắng! Anh thông báo: Lũ trên An Giang – Đồng Tháp đã về đến xã Hậu Mỹ Bắc A, Cái Bè rồi. Đến nơi thì thấy bà con đang gặt lúa gấp để né lũ. Lũ ở đồng bằng sông Cửu Long chảy tràn trên một mặt bằng rộng nên nó “bò” từ từ và nhích lên từng centimet một.
Đêm ấy chúng tôi ngủ lại trong một nhà dân. Lúc chúng tôi bỏ dép lên giường ngồi nhậu lai rai với chủ nhà thì nền nhà còn khô ráo. Một lúc sau quờ chân xuống đất thì dép đã bị nước cuốn trôi vô gầm giường! Sáng hôm sau thì cả huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang đã là một biển nước mênh mông… Những gia đình chưa kịp thu hoạch lúa xong thì phải gặt mò! Gia đình nào thu hoạch lúa xong thì phải chở lên lộ cao phơi. Mọi người đi lại bằng chiếc xuồng ba lá bé nhỏ. Tôi đứng nhìn cánh đồng ngập nước mênh mông và những chiếc xuồng con chống sào đi lại trên cánh đồng… Cảnh sắc giống hệt vùng chiêm trũng Hà Nam - Phủ Lý mùa mưa bão ngoài Bắc. Nhưng nên nhớ rằng, nước đồng chiêm trũng ngoài Bắc là thứ nước chua có hại cho cây lúa mà nông dân miền Bắc gọi đó là vùng “chiêm khê mùa thối”! Còn “nước nổi” mà chúng tôi đang cởi quần dài vắt lên cổ để lội ở Cái Bè lúc này là nước ngọt phù sa rất tốt cho cây lúa. Nó là thứ phân bón hảo hạng nhất, giúp cho đồng ruộng luôn “trẻ” lại. Nó diệt cỏ, diệt chuột bọ trên đồng để mùa sau khỏi phải phun thuốc trừ sâu diệt cỏ. Cảnh vật quanh tôi lúc đó yên tĩnh, êm ả, thanh bình, nhiều người chuẩn bị đi giăng câu bắt cá, có một chiếc ghe lớn chở các cô các bà ăn vận loè loẹt – có lẽ họ đi ăn cưới – đang lướt qua chỗ chúng tôi. Tôi đã nghĩ ra cái tứ “chung sống với lũ” từ cái đầu đang quấn chiếc quần dài để né lũ và đôi chân đang ngâm dưới biển nước phù sa mát rượi ở Cái Bè hôm đó. Thực ra dân đồng bằng sông Cửu Long đã chung sống với lũ từ lâu, tôi chỉ đưa nó thành khẩu hiệu mà thôi.
Những bài phát thanh trên Đài Tiếng nói Việt Nam, trên các báo ở Sài Gòn, ở Hà Nội mang nội dung “chung sống với lũ” của tôi đã lần lượt ra đời từ mùa lũ năm 91 đó. “Chung sống với lũ” trở thành một khẩu hiệu, một cụm từ trong lời nói, trong các văn bản… lúc nào không hay.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đọc những bài tôi viết về đồng bằng sông Cửu Long, về lũ. Có lần ông hỏi tôi: Vợ chồng Phú Khải sống với nhau thế nào? Câu hỏi đột ngột quá, khiến tôi chưa biết trả lời ra sao thì ông nói: Phải sống hoà thuận, chứ như chung sống với lũ mà Phú Khải viết thì không ổn! Và sau đó hàng loạt những chương trình để chung sống với lũ như khu dân cư vùng lũ, cơ cấu lại thời gian gieo sạ lúa Hè Thu để né lũ, khai giảng sớm hơn cho các trường học trong vùng lũ để né lũ, xây lại các trạm y tế xã trên gò cao để đồng bào có thể đi xuồng đến khám chữa bệnh trong mùa lũ… đã được chính phủ dưới thời ông Võ Văn Kiệt tiến hành có hiệu quả. Năm 1998, đồng bằng sông Cửu Long lũ rất thấp, sâu bệnh hoành hành, mất mùa lúa, mất mùa cá, ông Võ Văn Kiệt lúc đó là cố vấn Ban chấp hành Trung ương, trong một hội nghị lớn về Đồng bằng sông Cửu Long, ông đã nói một câu bất hủ mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ: Với Đồng bằng sông Cửu Long, không có lũ cũng là thiên tai!
Tháng 10-1997, anh Lê Huy Ngọ lên làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Lần đầu tiên Bộ trưởng vô Sài Gòn, ông kêu anh Nguyễn Nhiệm – chuyên gia thuỷ lợi đang làm việc ở Văn phòng 2 của Bộ ở TP HCM, giao nhiệm vụ: Cậu tìm xem ai là người đầu tiên nêu khẩu hiệu “chung sống với lũ” để tớ thưởng! Anh Nhiệm đến tìm tôi và nói: Bộ trưởng mới lên giao nhiệm vụ, nhà báo gắng giúp tôi. Tôi bảo anh Nhiệm cứ về đi, mai tôi trả lời. Anh mừng lắm. Hôm sau, tôi đem đến cho anh Nhiệm ba bài viết của tôi trên báo. Bài thứ nhất: Ơi! Đồng bằng sông Cửu Long – Báo Xuân Sài Gòn Giải phóng (SGGP) Nhâm Thân 1992. Bài thứ hai nhan đề: Chung sống với thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long – đăng liền 2 số báo SGGP ngày 31 tháng 10.1994 và ngày 1 tháng 11.1994. Bài thứ ba: Né lũ, trang nhất báo Văn nghệ Hội Nhà Văn Việt Nam số ra ngày 5 tháng 11.1994. Tôi bảo anh Nhiệm, nếu anh tìm thấy văn bản nào có cụm từ “chung sống với lũ” trước các số báo này thì tôi không phải là tác giả “chung sống với lũ”, nếu không tìm được thì tôi là tác giả cụm từ “chung sống với lũ” đã in trong các số báo này. Tôi còn đưa cho anh Nhiệm một băng nhựa (cát-xét) thu các bài viết của tôi đã phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam về “chung sống với lũ”. Hai ngày sau, anh Nhiệm đến kêu tôi lên Văn phòng Bộ ăn cơm với Bộ trưởng Ngọ và nhận phần thưởng của Bộ trưởng.
Cuộc liên hoan nhỏ ấy có mấy nhà báo cùng dự và còn có cả chị Năm Triều – Tổng giám đốc công ty Lương thực miền Nam. Khi khách về hết rồi, anh Ngọ ra hiệu cho cậu thư ký tên là Nhạn mang phần thưởng là một chai rượu tây ra và anh trao cho tôi.
Trong một bữa nhậu với người em họ tôi và là một vụ trưởng của Bộ Tài chính ở Hà Nội, tôi “than”: Nêu một khẩu hiệu cả nước dùng (“chung sống với lũ”) mà thưởng có một chai rượu! Chú em tôi nhìn thẳng vào mặt ông anh rồi nói: Mồm bác bé thế mà lại nói một câu lớn như thế, người ta không cắt lưỡi là may lắm rồi, còn than cái nỗi gì!!!
Sách Chung sống với lũ, viết chung với Tiến sỹ Tô Văn Trường (NXB Thanh Niên – 2001)
Tác giả (phải) đi công tác trong Đồng Tháp Mười mùa lũ lớn năm 2000
Câu chuyện thứ ba: “Bị nhốt một ngày”
Những năm 80 của thế kỷ trước, có nạn ngăn sông cấm chợ do chính chính quyền chủ trương. Đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy ai giải thích vì sao lại có những việc làm dại dột đó!
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi có nhiều hàng hoá nhất nên nạn ngăn sông cấm chợ càng khủng khiếp. Tôi đi từ Bến tre về Mỹ Tho, qua phà Rạch Miễu bao giờ cũng được các bà các chị dúi vào tay một ký đường hoặc một ký khô nhờ mang hộ, sang sông rồi các chị “xin lại”… để tránh quản lý thị trường lục soát thu mất.
Quốc lộ 1 đoạn giáp ranh giữa Tiền Giang và Long An có trạm kiểm soát Tân Hương khét tiếng một thời. Ở đây có giai thoại, một anh bộ đội đi từ Sóc Trăng về TP HCM, anh có mang theo 10 ký gạo. Khi bị quản lý thị trường trạm Tân Hương bắt giữ 10 kg gạo, anh đưa giấy phép mang 10 kg gạo đó và nói: Đây là giấy của ông Đỗ Mười cấp cho tôi để mang gạo lên thành phố nuôi mẹ ốm bệnh! Anh quản lý thị trường quát: Đỗ Mười chứ Đỗ Mười Một cũng tịch thu!
Tôi hàng tháng phải từ Mỹ Tho lên TP HCM báo cáo công việc của phóng viên thường trú đồng bằng sông Cửu Long nên sợ nhất phải qua trạm kiểm soát Tân Hương. Xe bị chặn lại xếp hàng để quản lý thị trường lục soát đậu dài cả cây số. Tôi quyết định làm một phóng sự điều tra có thu thanh về tệ nạn ngăn sông cấm chợ này. Tôi cẩn thận còn trèo lên mui một chiếc xe đò để chụp cảnh xe cộ bị chặn lại rồng rắn cả cây số! Nào ngờ mấy nhân viên quản lý thị trường trông thấy, leo lên mui xe kè tôi xuống và giựt máy ảnh của tôi. Tôi chống cự quyết liệt, hô hoán lên: Tôi là nhà báo của Trung ương, ai cho các anh cưỡng bức tôi? Đồng bào vây quanh ngày một đông. Mọi người đều ủng hộ nhà báo. Nhưng quản lý thị trường lúc đó chẳng khác gì đội cải cách ruộng đất ngày xưa ở miền Bắc. Họ có quyền làm mọi chuyện…
Họ bẻ quặt tay tôi. Đau quá tôi la ầm lên. Một nhân viên trạm Tân Hương quát: Tháo phim trong máy ảnh ra nộp. Tôi làm theo họ, nộp cuộn phim để bảo toàn máy ảnh. Tôi sực nhớ ra và rút thẻ nhà báo giơ vào mặt các nhân viên đang đứng quanh tôi. Tôi nói lớn để đồng bào chung quanh nghe thấy: Tôi là nhà báo của Trung ương, có quyền giám sát việc làm của các địa phương, quyền đó được ghi sau thẻ nhà báo đây. Tôi cầm thẻ đưa vào mặt một vị nhân viên. Thật không ngờ, thấy tôi là nhà báo họ càng tấn công dữ dội hơn. Có lẽ họ thù nhất là các nhà báo. Họ nhìn nhau ra hiệu, rồi hai người kè, xốc hai tay tôi kéo về trạm. Họ đẩy tôi vào một cái “bốt” bằng gỗ, chỉ đủ một hai người ngồi trong đó và khoá cửa lại. Chính thức “nhốt” một nhà báo (của TƯ)!
Tôi bị nhốt và bỏ đói như thế từ 8 giờ sáng cho đến 4 giờ chiều mới được thả ra. Nhưng đau đớn nhất là bài phóng sự của tôi về trạm kiểm soát Tân Hương đã được Giám đốc Nguyễn Thành của cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại TP HCM duyệt và thu băng gửi ra Hà Nội, nhưng không được Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng. Vì, cấm chợ ngăn sông là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”!!!
L.P.K.Tác giả gửi BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.