Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2022

Đài Loan không phải là Ukraine của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Thay vào đó, hãy xét đến số phận Việt Nam

 

Đài Loan không phải là Ukraine của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Thay vào đó, hãy xét đến số phận Việt Nam

Cuộc chiến của Nga ở Đông Âu khiến các nhà quan sát an ninh khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương so sánh giữa hoàn cảnh của Ukraine [đối với Nga] và hoàn cảnh của Đài Loan đối với Trung Quốc.

Chắc chắn, Ukraine và Đài Loan đều là các quốc gia dân chủ xung đột với một cường quốc láng giềng theo chủ nghĩa xét lại và độc tài — [xét lại trật tự thế giới hiện nay, DG]. Lập luận của Vladimir Putin rằng, Ukraine không phải là một quốc gia có chủ quyền, thậm chí có vẻ lặp lại lời của Tập Cận Bình và mọi nhà lãnh đạo Trung Quốc trước ông: Đài Loan chỉ là một tỉnh phản bội tổ quốc và “sự thống nhất” sẽ đến, dù có thông qua các phương tiện hòa bình hay cưỡng chế, nếu cần.

Tuy nhiên, sau những điểm tương đồng đáng chú ý này, sự so sánh Ukraine-Đài Loan không đứng vững. Sự tương tự dễ thấy hơn nằm ở một quốc gia khác của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương: Việt Nam.

Là một nhà nước xã hội chủ nghĩa đồng minh do một Đảng Cộng sản độc tài cai trị, Hà Nội đang chịu áp lực ngày càng lớn từ Trung Quốc, đặc biệt xung quanh các tuyên bố chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông. Mặc dù Trung Quốc không đe dọa xâm lược Việt Nam như Ukraine của Nga, nhưng đôi khi các cuộc đụng độ nguy hiểm trên biển giữa hai quốc gia châu Á đã diễn ra. Không phải là không tưởng tượng được rằng một sự cố trên biển có thể tràn vào đất liền, phá vỡ nền hòa bình kéo dài hàng thập niên tại biên giới chung của họ. Ngược lại, một kịch bản như vậy có nhiều khả năng xảy ra hơn là một cuộc xâm lược Đài Loan sớm xảy ra.

Việt Nam không có liên minh an ninh với bất kỳ cường quốc hoặc mạng lưới liên minh nào, đó chính xác là điều khiến Ukraine dễ bị tổn thương. Chính sách đối ngoại không liên kết của Hà Nội kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, có nghĩa là Trung Quốc có thể tấn công mà không sợ bị các quốc gia mạnh hơn trả đũa. Mặc dù quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, quan hệ đối tác “toàn diện” của Washington với Hà Nội là quan hệ đối tác ở nấc thang thấp nhất trong hệ thống phân cấp của Việt Nam.

Sự sụp đổ của Liên Xô khiến Việt Nam cảm thấy bị các liên minh hắt hủi đến mức Hà Nội thậm chí không có liên minh an ninh với cả người bạn lâu đời của mình là Nga. Điều này đặt Việt Nam vào tình trạng đơn thương độc mã trên Biển Đông. Nếu so sánh, Philippines có các tuyên bố chủ quyền rộng lớn, chồng chéo với Trung Quốc nhưng có thể dựa lưng vào quan hệ đồng minh với Washington.

Đành rằng, Đài Loan cũng không có liên minh với Hoa Kỳ hoặc bất kỳ cường quốc nào khác, nhưng mọi chính quyền Mỹ kể từ khi Hoa Kỳ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc để công nhận Bắc Kinh vào năm 1979 đều cung cấp Đài Loan những thứ vũ khí cần thiết để phòng thủ dưới sự bảo trợ của Đạo luật Quan hệ Đài Loan. Hơn nữa, chỉ trong tháng 10 năm ngoái, Tổng thống Joe Biden đã hai lần khẳng định rằng Hoa Kỳ đã chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ Đài Loan nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công quân sự nhắm vào hòn đảo này. Việt Nam không thể có kỳ vọng như vậy.

Việt Nam, giống như Ukraine, trước đây cũng đã từng bị tấn công bởi nước láng giềng lớn hơn của mình. Nga chiếm Crimea vào năm 2014 và xâm nhập vào khu vực biên giới Donetsk và Luhansk của Ukraine. Tương tự, Trung Quốc đã chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa từ Nam Việt Nam vào năm 1974 và từ chối trao trả chúng sau khi Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản. Sau đó, vào năm 1979, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc xâm lược để “dạy cho Việt Nam một bài học” vì đã can thiệp vào Campuchia chống lại Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn.

Mạng xã hội Việt Nam đã xôn xao về những điểm tương đồng này kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng Nga – Ukraine. Theo một bài bình luận gần đây, điều duy nhất đã cứu Việt Nam khỏi một cuộc xâm lược toàn bộ là nhờ liên minh với Liên Xô có vũ khí hạt nhân, liên minh ấy nay không còn tồn tại.

Bắc Kinh đã tiếp tục thực hiện các lựa chọn quân sự chống lại Việt Nam. Ví dụ, vào năm 1988, Trung Quốc đã đánh đuổi các lực lượng Việt Nam tại Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Trong một thập niên gần đây, Trung Quốc đã xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa và triển khai lực lượng đến quần đảo Hoàng Sa.

Trung Quốc, ngày nay sở hữu lực lượng hải quân lớn nhất thế giới, cùng lực lượng tuần duyên, và lực lượng dân quân đánh cá trên biển lớn nhất khu vực, hiện thường xuyên tuần tra các khu vực tranh chấp và buộc các đối thủ phải rời khỏi khu vực. Vào đầu tháng 3, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã tiến hành một cuộc hành quân trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, có thể là để trục vớt một chiếc máy bay chiến đấu bị rơi mà không cần sự cho phép của Hà Nội.

Trong khi đó, trên biên giới đất liền, việc thành lập ít nhất một, có lẽ hai căn cứ của PLA gần đó đã được công khai hồi năm ngoái – một căn cứ tên lửa và máy bay trực thăng. Luật ranh giới đất liền mới của Bắc Kinh, cũng được thông qua vào năm 2021, khuyến khích việc bảo vệ tích cực các biên giới của Trung Quốc bằng vũ lực, gợi ý rằng các đơn vị PLA hoạt động từ các căn cứ này có thể được trao quyền để gây thêm áp lực đối với Việt Nam.

Lính Hải quân Trung Quốc tuần tra ngày 29-1-2016 ở đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa (mà TQ cưỡng chiếm của VN). Nguồn: China Stringer Network / Reuters

Đài Loan cũng phải đối mặt với các mối đe dọa ngày càng tăng, đặc biệt là các máy bay chiến đấu của Trung Quốc bay gần hoặc xâm nhập vào vùng nhận dạng phòng không của đảo quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện bất kỳ hành động quân sự trực tiếp nào chống lại đảo này kể từ khi chính phủ Quốc dân đảng chạy ra đó vào cuối cuộc nội chiến Trung Quốc năm 1949. Điều này không có nghĩa là quan hệ xuyên eo biển đã không xảy ra sự cố.

Trong các năm 1954–55 và 1958, PLA nã pháo vào các tiền đồn quân sự của Đài Loan trên Kim Môn và Mã Tổ gần bờ biển của Trung Quốc. Ngoài ra, vào các năm 1995 và 1996, Bắc Kinh đã phóng tên lửa gần Đài Loan để phản đối chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng thống Lý Tăng Hội thời đó. Tuy nhiên, về tổng thể, Bắc Kinh đã hạn chế thực hiện các hành động quân sự chống lại chính đảo Đài Loan. Điều tương tự không thể nói về Việt Nam.

Trung Quốc cũng tin chắc dễ dàng đánh bại Việt Nam trong một cuộc chiến tranh qui ước, mặc dù không nhất thiết như vậy trong một cuộc xung đột du kích kéo dài, điều này không khác mấy với sự đánh giá của Nga về sự kém cỏi của các lực lượng vũ trang Ukraine trước khi chiến tranh xảy ra. Trung Quốc duy trì lợi thế quân sự rất lớn so với Việt Nam, cho dù dưới hình thức tên lửa đạn đạo và hành trình, máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, tàu ngầm, hạm đội mặt nước và các lĩnh vực khác.

Sau khi công bố tăng tài trợ 7,1% vào đầu tháng này, ngân sách quốc phòng của Bắc Kinh vào khoảng 230 tỷ USD, gấp ít nhất 32 lần ngân sách ước tính 7 tỷ USD của Hà Nội. Hơn nữa, Trung Quốc đã hỗ trợ đầu tư vào chuyên nghiệp hóa quân sự, đặc biệt là để tăng cường hợp tác giữa các binh chủng, để cuối cùng biến PLA, theo chỉ đạo của Tập Cận Bình, thành một quân lực “đẳng cấp thế giới”. Việt Nam thua xa Trung Quốc về mọi mặt có thể hình dung được.

Ngược lại, Đài Loan đã đầu tư rất nhiều vào việc mua sắm hoặc phát triển các khả năng phòng thủ phi đối xứng giá rẻ để tạo thêm khó khăn cho các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm chinh phục đảo quốc này. Đài Loan sở hữu các tên lửa đất đối không, như các khẩu đội tên lửa Patriot của Mỹ và tên lửa hành trình chống hạm.

Đài Loan cũng hưởng nhiều lợi thế từ sự hỗ trợ kéo dài hàng thập niên trong việc mua sắm các hệ thống vũ khí tiên tiến từ Hoa Kỳ, bao gồm việc mua 66 máy bay chiến đấu F-16V hồi năm ngoái để tăng cường khả năng không chiến và tuần tra. Đài Loan đã đặt ưu tiên hàng đầu cho việc hợp tác giữa các binh chủng và kiện toàn khả năng tiến hành chiến tranh trong các lĩnh vực không quân và hải quân, trong khi Việt Nam thì không, do đó rất dễ làm suy yếu chất lượng của các cuộc hành quân hỗn hợp của họ.

So sánh Nga-Ukraine với Trung Quốc-Đài Loan là thiếu nghiêm túc. Đúng ra, một kịch bản Trung Quốc-Việt Nam thì có vẻ phù hợp hơn.

Về mặt địa lý, việc chinh phục Đài Loan có lẽ sẽ phức tạp hơn nhiều so với cuộc xâm lược Ukraine trên đất liền của Nga. Nga tập trung quân dọc theo biên giới và xâm chiếm phần địa hình hầu hết là bằng phẳng và tiếp giáp. Mặt khác, Trung Quốc sẽ phải tiến hành thành công chiến dịch đổ bộ nhằm vào Đài Loan và có thể dễ bị tổn thương khi đi qua eo biển Đài Loan. Đường biên giới chung trên đất liền của Việt Nam với Trung Quốc, tương tự như Ukraine, không có bất kỳ thách thức địa hình đặc biệt khó khăn nào.

Không có phép so sánh nào là hoàn hảo, nhưng sự so sánh Nga-Ukraine với Trung Quốc-Đài Loan còn thiếu sót nghiêm trọng. Đúng hơn, đó là một kịch bản Trung Quốc-Việt Nam, trong đó một sự cố ở Biển Đông leo thang thành một cuộc xung đột lớn hơn trên đất liền, có vẻ phù hợp hơn.

Kết luận này có ngụ ý theo hai cung cách. Một mặt, Washington cảm thấy an ủi khi biết rằng Đài Loan không dễ bị tổn thương như Ukraine. Mặt khác, biết đâu Hoa Kỳ lại muốn có một cái nhìn khác về tình huống nhạy cảm của Việt Nam.

_____

Tác giả: Derek Grossman là nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại Tập đoàn RAND phi lợi nhuận, phi đảng phái. Trước đây, ông từng là cố vấn tình báo tại Lầu Năm Góc.

Bài bình luận này ban đầu xuất hiện trên Nikkei Asia ngày 21 tháng 3 năm 2022. Diễn đàn Bình luận mang đến cho các nhà nghiên cứu RAND một nền tảng để truyền đạt những hiểu biết sâu sắc dựa trên kiến thức chuyên môn của họ và thường dựa trên nghiên cứu và phân tích được đánh giá ngang hàng của họ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.