Thứ Năm, 7 tháng 1, 2016

Nhân dân tệ vẫn chưa thể là đồng tiền tự do chuyển đổi

Nhân dân tệ vẫn chưa thể là đồng tiền tự do chuyển đổi

Vũ Quang ViệtTue 2:30 AM



Nhân dân tệ vẫn chưa thể
là đồng tiền tự do chuyển đổi


Vũ Quang Việt


Hiện nay các nước đã giữ lượng Nhân dân tệ (NDT) làm đồng dự trữ tương đương với108 tỷ US, bằng khoảng 1% tổng dự trữ trên thế giới. Con số này so ra còn rất nhỏ bé so với các đồng tiền khác đang được dùng làm dự trữ khác:  65% tiền dự trữ là USD, 20% là đồng Euro, 4.7% là đồng Anh, và 3.8% là đồng Nhật.  Việc giữ NDT nhiều hơn trong tương lai còn tùy thuộc vào sự tin cậy về giá trị của nó. Vì tình trạng thương mại hai chiều lớn với TQ, việc dùng đồng NDT sẽ làm chi phí thanh toán thấp đi, vì không phải chuyển đổi qua đồng thứ ba. Tuy nhiên nếu đồng NDT thay đổi giá trị khó lường thì sẽ ít ai giữ nó làm đồng dự trữ, họ sẽ chuyển sang đồng thứ ba để bảo vệ giá trị.  Khi trở thành đồng dự trữ thì TQ sẽ không thể (dễ) dùng thủ thuật hành chính để giảm gía nhằm tăng xuất khẩu nữa. Có thể đọc qua website này ở Trường Wharton là Đại học Pennsynvalnia để biết các bình luận của các nhà kinh tế ở Mỹvề việc đồng NDT được coi là đồng dự trữ.

Lý do IMF bầu chọn TQ


Mới đây, vào cuối tháng 11 năm 2015, Nhân dân tệ (Yuan) – NDT – được IMF cho vào rổ đồng dự trữ kể từ tháng 10 năm 2016. Về hình thức, IMF công nhận NDT là đồng dự trữ vì nó đạt được hai điều kiện: chiếm tỷ lệ lớn trong xuất khẩu của thế giới (TQ chiếm 11% trong 5 năm qua) và có thể tự do sử dụng được (freely usable), điều mà IMF cho đến tháng 8 năm 2015 vẫn không công nhận sau khi xem xét. Điều kiện thứ hai thì quả thực là điều mơ hồ, vô nghĩa. Chính IMF đã viết rằng: 
 “Ý niệm tự do sử dụng được liên quan đến tình trạng sử dụng đồng tiền trên thực tế trên thế giới và qua mua bán đồng tiền, nó không phải là đồng tiền được thả nổi hay tự do chuyển đổi. Nói cách khác, đồng tiền có thể sử dụng và trao đổi rộng rãi dù nó bị hạn chế trong dòng chảy tư bản.” (The concept of a freely usable currency concerns the actual international use and trading of currencies, and it is distinct from whether a currency is either freely floating or fully convertible. In other words, a currency can be widely used and widely traded even if it is subject to some capital account restrictions.)
Nói tóm lại, điều kiện 2 không khác gì điều kiện 1 và như thế NDT vẫn không phải là đồng tự do chuyển đổi. IMF xem xét điều kiện việc chấp nhận NDT khác hẳn cách họ đã từng sử dụng đánh giá đồng Nhật. Tờ báo Economist ở Anh đã nhận ra điều chiếu cố này.  
Thả lỏng định nghĩa như thế một phần là phản ánh việc IMF đã chấp nhận sai lầm trong việc áp đặt các nước thực hành tự do trong luồng chảy tư bản.  Như vậy, NDT sẽ chiếm 10.92% trong rổ dự trữ của IMF so với đồng Mỹ là 41.73%, đồng Euro là 30.93%, đồng Nhật là 8.33% và đồng Anh là 8.09%. Ngoài ra, nó có nghĩa là khi các nước có đồng này thì có thể tính vào số dự trữ khi báo cáo cho IMF và World Bank (*).  
Vậy ý nghĩa của việc NDT được chấp nhận là đồng chuyển đổi này là gì?

Chính sách khôn ngoan của TQ


TQ  muốn NDT được chấp nhận là đồng chuyển đổi, phần lớn vì muốn gây thanh thế về mặt kinh tế và chính trị, nhưng phần nữa có thể dễ giúp bành trướng đầu tư trực tiếp ra mọi nước trên thế giới nhằm khai thác nguyên liệu phục vụ thị trường TQ, đồng thời xuất khẩu hàng hóa, mà chỉ cần dùng NDT; điều này sẽ làm giảm chi phí chuyển đổi thông qua một đồng tiền khác và dần có thể hành động kiểu Mỹ là in tiền phân phát khắp nơi (mà không cần bảo chứng).
Về dài lâu, khi NDT thật sự trở thành đồng dự trữ được sử dụng rộng rãi, được tín nhiệm thì rõ ràng nó có thể thay đổi vai trò bá chủ của đồng USD hiện nay. Thị trường có thể bỏ đồng USD, với một tỷ lệ đáng kể, chạy vào đồng NDT, cắt giảm khả năng Mỹ có thể bơm tiền thoải mái vào thị trường thế giới để tài trợ chi tiêu của mình như hiện nay (với nhập khẩu vượt xa xuất khẩu), mà không gây nên lạm phát trong nước. Nhưng chuyện này có lẽ còn xa vời, nếu thế giới vẫn tin đồng USD hơn NDT.   
Nhưng cả IMF đều biết là TQ không thật sự muốn NDT là đồng hoàn toàn được tự do chuyển đổi.  TQ vẫn muốn tiếp tục kiểm soát được lượng USD hay đồng chuyển đổi khác chảy ra nước ngoài.  Lý do rất đơn giản là khi đồng tiền được tự do chuyển đổi thì TQ phải đối phó với khả năng đồng bạc của mình bị tấn công: tư bản nước ngoài bỏ chạy và đồng tiền mất giá. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống tài chính và nền kinh tế. Và điều này TQ hoàn toàn không muốn.
Chỉ giảm thiểu được các cuộc tấn công khi đồng tiền được bảo chứng bằng niềm tin. Nhưng chỉ có thể bảo chứng bằng niềm tin bằng một nền kinh tế phát triển bền vững, và không được phép sử dụng mánh khóe và thủ thuật lũng đoạn thị trường nhằm mang lợi cho mình và hại cho người khác.  Với nền kinh tế mở, tất nhiên, TQ sẽ phải đối phó với các thủ thuật đầu cơ trong chu chuyển luồng tư bản từ nước này sang nước khác, không chỉ có ảnh hưởng đến gía trị đồng tiền, mà có thể đẩy tới sự bỏ chạy của đồng tiền, đưa đến vỡ nợ quốc gia. Vì thế TQ sẽ tìm cách để NDT thực sự không phải là đồng tự do chuyển đổi trong một thời gian dài nhằm hạn chế được các cuộc tháo chạy của tư bản nước ngoài (hay của ngoại tệ) như đã xảy ra ở nhiều nơi trong đó có Hàn Quốc và nhiều nước châu Á vào năm 1997. IMF đã từng có chính sách ép buộc các nước chấp nhận tự do chuyển đổi toàn diện trước đó và trong cuộc khủng hoảng ở châu Á năm 1997 nhưng sau đó đã chấp nhận mình sai lầm.  Thời đó nước nào theo IMF nhận viện trợ cứu nguy thì lại gặp khó khăn hơn rất nhiều năm sau đó, nước chống lại như Mã Lai thì lại chịu ít thiệt hại và thóat khỏi khủng hoảng nhanh chóng hơn. Tôi đã viết nhiều về vấn đề này, có thể coi bình luận về kinh tế Nhật suy giảm do tình trạng doanh nghiệp quá nhiều còn ngân hàng thì thừa vốn phải xuất khẩu tư bản, khá giống TQ hiện nay(2004), và vấn đề vàng và đô la hóa (2006). 
Nhưng TQ làm thế nào để hạn chế sự lưu thông tư bản, hay ngoại tệ?
Kinh nghiệm của các nước nhỏ (ở đây khi mà lượng dự trữ NDT ở các nước còn nhỏ dù lượng dự trữ USD ở TQ rất lớn – khoảng 3000 tỷ cuối năm ngoái, thì vẫn có thể coi TQ mà nước nhỏ) cho thấy tự do dòng chảy tư bản, có thể cho phép giới đầu cơ tiền tệ đánh sập giá một đồng bạc bằng cách bán ra khi ở giá cao và mua lại khi đã xuống giá. Việc này dễ xảy ra khi sự tin tưởng vào giá trị đồng NDT còn là câu hỏi. Thực tế cho thấy người giàu ở TQ sẵn sàng chuyển đồng NDT sang đồng USD để chuyển tài sản ra nước ngoài.  Theo báo Financial Times, 8 tháng đầu năm 2015, đã có 500 tỷ USD bỏ chạy ra ngoài. Đồng NDT mới đây xuống giá cũng là vì thế.
Để nâng khả năng kiểm soát mức tự do trong chuyển đổi tự do, tiếp tục hạn chế ở mức nhất định và xác định quyền hạn chế dòng chảy tư bản khi cần, và đây là một số biện pháp, TQ đang và sẽ thực thi ở mức độ theo hoàn cảnh yêu cầu:
(1)  Tiếp tục yêu cầu xin giấy phép để chuyển ngân ra nước ngoài.
(2)  Tiếp tục hạn chế hoặc xác định quyền hạn chế người nước ngoài mua hoặc bán lượng cổ phiểu (hoặc tỷ lệ cổ phiểu của doanh nghiệp), hoặc hạn định thời gian tối thiểu phải giữ cổ phiếu trước khi được phép bán, hoặc hạn chế lượng tiền ngoại tệ chuyển ra nước ngoài.    
(3)  Tiếp tục hạn chế số nơi có thể buôn bán đồng NDT, như hiện nay, chỉ có vài nơi buôn bán số lượng lớn là Hồng Kông, Singapore và London.  Đây là những ngân hàng có liên hệ với TQ để có hợp đồng trao đổi (swaps) thay vì chuyển đổi tự do, với giới hạn nhất định. TQ sẽ giữ tiền NDT và chỉ cung cấp khi cần. Cách làm này khiến chi phí chuyển đổi đắt và chuyển đổi coi như bị ngừng khi đạt tới lượng theo hợp đồng. 
(4)   TQ tiếp tục hướng thực hiện hợp đồng trao đổi với các ngân hàng trung ương các nước. Như báo NYT viết (1 December 2015)TQ vẫn không muốn khuyến khích ngân hàng trung ương các nước mua lượng Yuan lớn. Họ muốn hai bên có hợp đồng tra đổi, làm thế để có thể hạn chế được các yêu cầu mua lớn (có thể mang tính thời cơ) để làm giá đồng Yuan tăng và làm giảm nhập khẩu hàng TQ và làm tăng xuất hàng nội địa của các nước.  
The government did not encourage other central banks to buy large sums of renminbi. Instead, China entered into a series of swap agreements with dozens of countries like Australia, Brazil, South Africa, Germany and Iceland.
Với chính sách như trên, TQ được lợi cả hai đàng. Phải nói rằng đây là chính sách khôn ngoan của họ. TQ tham gia vào WTO ở thời điểm họ có thể vừa được xâm nhập vào thị trường nước khác, nhưng đồng thời vẫn tiếp tục cản trở được sự xâm nhập của đầu tư nước ngoài vào ngành nghề mà họ muốn bảo vệ. Họ đi trước và được hưởng món lợi này. 
Nếu so sánh với TQ, Việt Nam ngược lại, xem đàn anh hành động như thế nào, rồi làm theo. Chính vì theo sau, VN đã phải chấp nhận mở cửa khá toàn diện, kể cả đáp ứng với yêu cầu của TQ để được nhận vào WTO. Có thể nói thêm, quán tính theo sau này vẫn được áp dụng trong chính sách ngoại giao của VN từ rất nhiều năm nay. Ở Liên Hiệp Quốc, VN nhìn hai đàn anh bỏ phiếu rồi làm theo, nếu hai ông anh phiếu trắng thì ông em cũng phiếu trắng. Tất nhiên chỉ vài trường hợp không cho phép bỏ phiếu bác bỏ lợi ích của chính mình. 

Cách hành xử cần có của các nước có buôn bán lớn với TQ như Việt Nam


Nếu nước nào đó ít buôn bán với TQ thì chẳng cần giữ đồng Yuan làm gì.  Nếu có buôn bán thì việc có dự trữ trong rổ để tạo sự dễ dàng cho buôn bán mà không cần mất phí chuyển đổi qua đồng thứ ba là dễ hiểu. Nguyên tắc chọn các đồng tiền trong rổ dự trữ của IMF cũng được áp dụng ở nhiều quốc gia nào đối với đồng tiền của đối tác để bảo đảm sự vận hành trơn tru trong quan hệ thương mại với nước ngoài.
Nhưng đó là nguyên tắc “sạch”, tức là đồng tiền trong rổ phải là đồng tiền có thể tự do chuyển đổi, và đáng tin cậy, không mất giá do nền kinh tế của đối tác bất ổn. Dù kinh tế TQ có ổn định nhưng đồng NDT bị TQ kiểm soát, và sẵn sàng sử dụng nhằm sở hữu, kiểm soát hay ít nhất là áp lực thị trường nội địa như VN bằng việc tung NDT thu mua đất đai, tài sản, đặc biệt là tài sản tài chính (gián tiếp) để rồi có thể bán tống dễ dàng như  trái phiếu, cổ phiếu thì không thể coi nó ngang hàng với đồng USD, đồng Euro hay đồng Nhật, mà cần có chính sách kiểm soát phản ứng khi cần thiết, và tốt nhất là có biện pháp hạn chế ngay từ đầu. Tất nhiên, đối phó với các đồng khác cũng thế, chứ không chỉ NDT. Chính sách kiểm soát cũng không thể bỏ qua sự thực là TQ không chỉ hành động có tính thương mại và còn dựa vào thủ đoạn chính trị. Nhớ lại năm 2011 khi TQ ra lệnh tạo độc quyền khai thác và hạn chế xuất khẩu đất hiếm, cần cho công nghệ bóng đèn, công nghệ quốc phòng và các công nghệ caokhác là đủ thấy tính cách của TQ.  
Hiện nay Việt Nam quá lệ thuộc vào thị trường TQ. Tỷ lệ nhập từ TQ tăng từ 16% năm 2005 lên trên 30% vài năm gần đây (xem biểu đồ).
bang
Nguồn: ADB
Nếu áp dụng nguyên tắc mà IMF sử dụng thì NDT trong rổ hàng VN sẽ chiếm tới hơn 30%, chứ không phải 10% như của IMF.  Tất nhiên, các nước trong khu vực không ai dùng đồng Kampuchia hay Lào làm đồng dự trữ.  Nhưng vì lệ thuộc TQ, sẽ có người và nhất là phía TQ lý luận rằng Việt Nam tất nhiên sẽ giảm được chi phí thanh toán nếu có khoảng 30% trong dự trữ ngoại tệ là NDT, nếu như việc lệ thuộc vào kinh tế TQ ở mức độ này chấp nhận được. Lý luận thật sự không đứng vững vì do nguồn tài chính nhập siêu từ TQ là từ nguồn xuất siêu sang Mỹ, Nhật và châu Âu, nên việc phải giữ trong tay một lượng lớn đồng NDT cũng không cần thiết, và nhất là VN cần phải giảm tình trạng lệ thuộc này.  
Tuy nhiên, TQ không chỉ lập luận về dự trữ đồng NDT mà là mở cửa cho việc sử dụng đồng NDT ở VN như đồng tiền thanh toán nội địa, đặc biệt là ở vùng biên giới, mà họ áp lực VN tổ chức xây dựng thành một hành lang tự do thương mại.  Trong một bài viết trước đây, tôi đã trình bày luận điểm và các hệ quả của nó (không nhắc lại ở đây) rằng:
 “ không một nước nào muốn có một nền kinh tế độc lập, lại muốn xóa bỏ khả năng điều hành chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép sử dụng rộng rãi vàng hay ngoại tệ trong thanh toán nội địa, dù nó là đồng NDT hay USD. Sử dụng ngoại tệ một cách rộng rãi chứng tỏ rằng người dân không còn tin nội tệ và muốn giữ nó, đưa đến việc nội tệ mất giá.
Khi Liên Hiệp Âu Châu dùng đồng Euro là đồng tiền duy nhất và chính thức thì các nước thành viên đã tự nguyện xóa bỏ quyền kiểm soát chính sách tiền tệ của mình. Vì thế một nước độc lập như Hy Lạp cũng chỉ còn là một tỉnh nhỏ trong Liên Hiệp châu Âu. 
Trong quan hệ thương mại với TQ, VN hoàn toàn có thể dựa vào hợp đồng dùng đồng thứ ba, đồng Việt hay NDT. 
Dù dùng đồng nào để thanh toán phải theo nguyên tắc là việc chuyển đổi qua ngân hàng và tổ chức chuyển đổi chính thức được phép, và chỉ có thể đồng VN để chi tiêu chứ không thể một đồng khác. Ngoại tệ thu giữ,  phải được đặt dưới quyền kiểm soát và sử dụng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bất cứ lúc nào cần, thường thì phải báo cáo hàng ngày với NHNN, và lượng vượt ngoài cần thiết cho chuyển đổi thường xuyên,  phải được lưu giữ tại tại NHNN để làm dự trữ quốc gia.  
Có thể tóm tắt như sau: Mọi chi trả ở Việt Nam phải bằng đồng VNTrước đây VN cho phép dùng đồng USD và vàng nên mới gây ra tình trạng lạm phát không kiểm soát được. TQ trước đây có yêu cầu là chi trả bằng đồng yuan. Điều này chỉ cho phép thông qua trao đổi gữia ngân hàng, chứ không thể cho phép trao đổi giữa khách hàng.

Đính chính (ngày 4/1/2016) :


(*) Thông tin này không đúng, sau khi tôi nhờ người kiểm tra lại với IMF. NDT vẫn chưa phải là đồng tự do chuyển đổi nên vẫn chưa được tính vào tổng dự trữ ngoại tệ của các nước. 

Vũ Quang Việt


NGUỒN : Bản do tác giả gửi cho Diễn Đàn ngày 19.12.2015
So với bản đã đăng trên KTSG, bản này có kết nối các nguồn trích dẫn
(những đoạn màu xanh, có gạch dưới).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.