Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

Liệu cái chết của TPP có làm Việt Nam dừng các cải cách về quyền của người lao động?

Liệu cái chết của TPP có làm Việt Nam dừng các cải cách về quyền của người lao động?

bauxitevn6:16 PM

Vũ Quốc Ngữ dịch
Hà Nội nên đẩy mạnh những cải cách đã định cho dù không có TPP, theo Tiến sỹ Phạm Trọng Nghĩa, nghiên cứu viên của Chương trình Quản lý Kinh tế Toàn cầu.
Hiện tại, luật pháp và thực tiễn ở Việt Nam có khoảng cách khá xa so với những tiêu chuẩn lao động quốc tế về tự do lập công đoàn và thương lượng tập thể. Thứ nhất, theo Tổ chức Lao động Quốc tế, người lao động có quyền thành lập các tổ chức công đoàn theo sự lựa chọn của chính họ mà không cần sự cho phép của tổ chức trước đó, có nghĩa là có thể tạo ra nhiều tổ chức công đoàn trong mỗi doanh nghiệp. Ở Việt Nam, sự độc quyền của hệ thống công đoàn được luật pháp quy định. Người lao động không được hưởng quyền được thực sự tổ chức công đoàn, và họ không thể tự quyết định thành lập hoặc tham gia vào các công đoàn vì họ chỉ có một hệ thống công đoàn hợp pháp được công nhận. Việc tổ chức công đoàn được quy định trong Điều lệ của Công đoàn Việt Nam do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) thông qua.

Thứ hai, tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO yêu cầu các công đoàn phải độc lập với các cơ quan Chính phủ trong hoạt động tổ chức và các vấn đề tài chính, công đoàn cũng phải được độc lập với người sử dụng lao động trong việc thực hiện các hoạt động của công đoàn. Tại Việt Nam, công đoàn được định nghĩa trong Hiến pháp năm 2013 là các tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và người lao động. Điều này có nghĩa các công đoàn phải phụ thuộc mạnh mẽ vào nhà nước về hỗ trợ tài chính và quản lý nhân sự. Đồng thời, luật yêu cầu tất cả người sử dụng lao động phải đóng góp vào quỹ công đoàn, làm cho công đoàn trở nên phụ thuộc về tài chính đối với người sử dụng lao động.
Trong thoả thuận lao động với Hoa Kỳ về hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam cam kết đưa các tiêu chuẩn lao động quốc tế này vào hệ thống pháp luật và thực hiện trong thực tiễn. Để TPP có hiệu lực, việc sửa đổi Bộ luật Lao động đã được đưa vào chương trình nghị sự của Quốc hội để đưa luật trong nước phù hợp với yêu cầu của TPP. Tuy nhiên, khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP, cải cách về quyền của người lao động đã bị trì hoãn. Trong bối cảnh này, nhiều người lập luận rằng Việt Nam không cần thiết phải cải cách quyền con người vì không có yêu cầu cải cách từ Hoa Kỳ.
Ngược lại, tôi tin rằng Việt Nam cần và phải tiếp tục cải cách quyền người lao động bằng cách phê chuẩn hai Công ước ILO 87 và 98 về tự do lập hội và thương lượng tập thể. Bằng cách kết hợp các tiêu chuẩn trong các công ước này vào hệ thống luật pháp trong nước và thực hiện chúng trên thực tế, Việt Nam sẽ nhận được rất nhiều lợi ích về luật pháp, chính trị và kinh tế.

Lợi ích hợp pháp

Lợi ích hợp pháp của việc phê chuẩn và kết hợp các tiêu chuẩn của ILO về tự do lập hội và thương lượng tập thể có thể được đo bằng việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền liên quan được ghi trong Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam. Điều 25 của Hiến pháp này quy định rằng quyền tự do lập hội ở Việt Nam đi cùng với các quyền khác, như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do biểu đạt. Tuy nhiên, quyền tự do lập hội không phải là một quyền tuyệt đối vì “thực tiễn sẽ được luật pháp quy định”. Tuy nhiên, khung pháp lý hiện tại không đầy đủ và không tạo điều kiện cho tự do lập hội.
Từ năm 1992, một dự thảo luật về hiệp hội đã được xem xét ở Việt Nam, chủ yếu là do một ủy ban soạn thảo do Bộ Nội vụ chủ trì. Dự thảo đã được thảo luận nhiều và được đệ trình lên Quốc hội để thảo luận vào tháng 5 năm 2015 nhưng chưa được thông qua.
Khi không có trong luật quốc gia, việc phê chuẩn và thực hiện các tiêu chuẩn của ILO sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các giá trị và các quyền được ghi trong Hiến pháp Việt Nam theo ba cách.
Thứ nhất, nó sẽ giúp lấp đầy khoảng trống trong các quy định hiện hành bằng cách trở thành nguồn trực tiếp của luật pháp Việt Nam. Tại Việt Nam, các hiệp ước quốc tế được phê chuẩn là những nguồn trực tiếp của luật pháp và vượt trên luật pháp quốc gia. Do đó, sau khi phê chuẩn, các quy định của các công ước cốt lõi của ILO về tự do hiệp hội sẽ là những nguồn trực tiếp của luật pháp Việt Nam. Do đó, các quy định này sẽ góp phần bảo vệ quyền tự do lập hội do Hiến pháp quy định.
Thứ hai, phê chuẩn các công ước ILO sẽ tạo đà cho Chính phủ hành động. Ở Việt Nam, luật pháp trong nước gần như phù hợp với các điều khoản nội dung của ILO ngay cả trước khi các công ước có liên quan đã được phê chuẩn. Tuy nhiên, việc phê chuẩn sẽ tạo động lực khuyến khích Chính phủ thực hiện các quy định trong nước liên quan. Do đó, việc phê chuẩn và kết hợp các công ước của ILO về tự do hiệp hội sẽ tạo ra động lực để thực thi và thực hiện các quy định trong nước về quyền tự do hội họp, như được quy định bởi Hiến pháp.
Thứ ba, việc phê chuẩn và kết hợp hai Công ước 87 và 98 sẽ tăng cường thực hiện trong thực tiễn bằng cách áp đặt nghĩa vụ thi hành lên nhà nước dưới sự giám sát của ILO. Mặc dù pháp luật trong nước có thể đã phù hợp với các quy định cơ bản của ILO, các quy định về thủ tục của Công ước ILO yêu cầu các Chính phủ thực hiện các nghĩa vụ nhất định do cơ chế giám sát của ILO cung cấp, ví dụ như tư vấn các tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động trong việc lập báo cáo, trả lời các yêu cầu từ ILO, vv

Lợi ích chính trị

Rà soát và lồng ghép các công ước của ILO về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể vào luật pháp Việt Nam sẽ cho phép Việt Nam đạt được các nguyện vọng chính trị về dân chủ, phát triển nguồn nhân lực và quan hệ đối ngoại.
Thứ nhất, kết hợp các công ước về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể sẽ tạo ra một nền dân chủ hơn, góp phần đạt được mục tiêu của đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam để xây dựng một xã hội dân chủ và văn minh hơn. Hơn nữa, tự do hiệp hội và thương lượng tập thể là những công cụ để đạt được nền dân chủ công nghiệp, là một trong những cơ sở cho nền dân chủ xã hội. Thực hiện quyền này cho phép người lao động có tiếng nói để thể hiện nguyện vọng của họ, tăng cường vị trí của họ trong thương lượng tập thể, và cho phép họ tham gia vào việc xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế và xã hội.
Thứ hai, việc kết hợp và thực hiện các công ước này sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của việc phát triển nguồn nhân lực. Liên Hiệp quốc đã công nhận rằng tự do hiệp hội là điều cần thiết để cải thiện cuộc sống của người lao động và phúc lợi kinh tế của họ. Hơn nữa, quyền tự do hiệp hội cho phép đoàn kết giữa người lao động trong khi quyền đàm phán tập thể cho phép người lao động yêu cầu cải thiện các quyền và lợi ích. Những quyền này trao quyền cho công nhân trong quá trình đàm phán và bảo vệ người lao động khỏi bị bóc lột. Họ cho phép công nhân có nhu cầu về các sở thích khác, bao gồm đào tạo kỹ năng và giáo dục.
Thứ ba, phê chuẩn các công ước này sẽ chứng minh rằng Việt Nam muốn tuyên truyền Tuyên bố năm 1998 của ILO và tăng cường vị thế của Việt Nam trong ILO, giúp Việt Nam tránh những lời chỉ trích phát sinh từ cơ chế giám sát của ILO. Kết hợp và thực hiện hai Công ước 87 và 98 về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể ở Việt Nam sẽ thể hiện vai trò tích cực của Việt Nam trong việc bảo vệ và phát huy quyền con người tại nơi làm việc. Nó sẽ góp phần làm cho Việt Nam trở nên đáng tin cậy và được tôn trọng hơn trong quan hệ quốc tế cũng như giúp Việt Nam tránh những lời chỉ trích nặng nề từ nước ngoài và các tổ chức nước ngoài liên quan đến các cáo buộc về nhân quyền và vi phạm các quyền của người lao động.

Các lợi ích về kinh tế

Ngoài các lợi ích hợp pháp và lợi ích chính trị, việc kết hợp và thực hiện hai Công ước ILO 87 và 98 sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho Việt Nam.
Thứ nhất, theo Ngân hàng Thế giới, đảm bảo tự do hiệp hội và thương lượng tập thể có thể đi một chặng đường dài hướng tới việc thúc đẩy hiệu quả của thị trường lao động và hiệu quả kinh tế tốt hơn. Nếu quyền được tổ chức và thương lượng tập thể được công nhận, khuyến khích và bảo vệ, nó sẽ đảm bảo an toàn cho các mối quan hệ lao động, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định chính trị xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu hút FDI.
Thứ hai, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU, hoàn thành vào năm 2016, đang chờ ký kết và phê chuẩn. Hiệp định này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, như loại bỏ ít nhất 90% dòng thuế đối với xuất khẩu của Việt Nam sang EU và tăng nguồn vốn của EU cho Việt Nam. Nó cũng sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam. Các cam kết về quyền lao động trong FTA bắt nguồn từ Tuyên bố năm 1998 của ILO, bao gồm quyền tự do hội họp và thoả ước tập thể do hai Công ước ILO 87 và 98 đưa ra. Do đó, việc Việt Nam phê chuẩn, kết hợp và thực hiện các công ước ILO này sẽ giúp Việt Nam thực hiện các cam kết lao động theo hiệp định thương mại tự do này, và sẽ mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho Việt Nam.
Thứ ba, trong bối cảnh TPP đã chết, Việt Nam đang theo đuổi một hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương với Hoa Kỳ. Không cần phải nói, FTA này sẽ thúc đẩy nền kinh tế của Việt Nam; Tuy nhiên, hiệp định chắc chắn sẽ có các yêu cầu mạnh mẽ về quyền của người lao động ít nhất bằng với những thỏa thuận trong khuôn khổ TPP. Do đó, để có thể bảo đảm một FTA với Hoa Kỳ, việc kết hợp và thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể vào hệ thống pháp luật Việt Nam là một phần chuẩn bị quan trọng.
Tóm lại, mặc dù nhu cầu về cải cách về quyền của người lao động đã biến mất với cái chết của TPP, có nhiều lý do để Việt Nam tiếp tục quá trình cải cách thông qua việc phê chuẩn và kết hợp các công ước của ILO về tự do hiệp hội và thương lượng tập thể vào các hệ thống pháp luật của mình. Cải cách này sẽ mang lại ba lợi ích cho Việt Nam.
P.T.N.
__________
(*) Tiến sĩ Phạm Trọng Nghĩa là một nhà nghiên cứu của Chương trình Quản lý Kinh tế Toàn cầu, có trụ sở tại University College và Blavatnik School of Government.
VNTB gửi BVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.