54 năm ngày mất Nhất Linh (1906 - 7/7/1963)
bauxitevn8:07 AM
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đọc điếu văn truy điệu văn hào Nhất Linh tại công viên Tao Đàn Sài Gòn ngày 5-1-1964
Chân dung Nhất Linh của Nguyễn Gia Trí
Mộ ông bà Nhất Linh ở Hội An - Tên trên bia mộ dựng đứng lập năm 2001 không ghi tiếng Việt. Ảnh: Thắng Trương Điện.
Ảnh: Lê Hải
Than ôi! Đời chính trị lông hồng gieo núi Thái, ngẩng đầu lên sấm sét vẫn chưa nguôi; việc văn chương một tấc để ngàn thu, ngoảnh mặt lại đá vàng sao khỏi thẹn.
Muốn gào to hồn phách anh linh; để vọng khắp giang sơn tam biến.
Nhớ xưa tiên sinh: Chào đời khi gió nổi Đông du; mài thép dưới trăng mờ Thế chiến.
Nghiệp truyền gia giáo, thuở nhập môn từng đất Bắc vui quê; vai nặng quốc thù, bước du học lại trời Tây vượt biển.
Rèn chí đấu tranh; đua tài hùng biện.
Chí khí ngày kia một kiên cường; tài năng ấy càng thêm phát triển.
Bao năm xuất ngoại, đã lưu tâm tại chỗ, từng mưu lừa chước dối thực dân; một sớm hồi hương, lại ngứa mắt trông ra, cả tấn kịch trò hề phong kiến.
Thi văn đoàn Tự lực thế tất phải xung phong; mà tuần báo Ngày nay phải kịp thời xuất hiện.
Vì dân vì nước đẩy mạnh phong trào; có chí có gan thiếu gì phương tiện.
Nào hia với hốt, phá cho tan trò hoạn lộ thanh vân; nay cấp mai bằng, cười đến tỉnh lũ thư sinh bạch diện.
Từ đó tiên sinh: Lấy văn đàn làm nơi bái tướng, cờ phất dọc ngang; giữa chính trường cao giọng lập ngôn, bút mài sắc bén.
Làm sống lại tinh thần Yên Bái, nửa bước không lùi; cuốn ào lên tâm huyết Quốc dân, một dòng thẳng tiến.
Bôn ba nơi hải ngoại, Hàng Châu, Quỳ Châu, Liễu Châu; đối lập mọi cường quyền, chống Pháp, chống…, chống Diệm.
Ai hay: Gió gọi chưa lên; giờ nghe đã điểm.
Giữa cao trào Phật giáo, để hoằng dương chính pháp, lửa từ bi vừa thượng toạ thiêu thân; nêu đại nghĩa Nho gia, nhằm cảnh cáo độc tài, chén tân khổ cũng tiên sinh tuyên chiến.
Sét ngang tai, bạo lực thấy ghê hồn: Trời cúi mặt, không gian chờ nảy điện.
Lửa-Cách-Mạng dâng về thư tuyệt mạng, thôi rồi tay lãnh tụ! Khắp các giới: thức giả, bình dân, sinh viên, đồng chí, cùng dạt dào tim vỡ máu sôi; Người-Quay-Tơ đành bỏ trống guồng tơ, đâu nữa mặt kinh luân?
Cả bốn phương: Cà Mau, Thuận Hoá, Bến Hải, Nam Quan, nghe giục giã sông dời núi chuyển.
Nhưng đau đớn thay: Phút hạ huyệt súng gươm vây kín, muôn dòng châu đứt nối chưa tròn; buổi cầu siêu hương khói âm thầm, bao tiếng khóc dở dang còn nghẹn.
Cho nên hôm nay: Mừng quốc gia vừa khắc bạo trừ hung; đẹp hy vọng sẽ hà thanh hải yến (1).
Dân chúng thủ đô hướng về tiên sinh: Lễ Truy điệu mở đầu năm dương lịch, chạnh tưởng cồn dâu bãi bể, đốt hương lòng toả khắp mười phương; vườn Tao Đàn rung hết đợt âm giai, trông ra ngọn cỏ lá cây, hoà nước mắt vẩy quanh một chén.
Mong cảm tới tiên sinh: Dám nề chi u hiển.
Hỡi ơi: Tố Đoạn-tuyệt hành hồ đoạn tuyệt (2), mộng dẫu chơi vơi nửa cuộc, sử còn thơm danh liệt sĩ Tường Tam; Phượng Nhất Linh hề thiên nhất phương (3), lầu tuy ngơ ngác bên sông, gió vẫn nổi tiếng văn hào họ Nguyễn.
Sài Đô, 5-1-1964
Vũ Hoàng Chương
Chú thích
Là một nhà Hán học cự phách, trong bài văn tế trên đây, thi sĩ Vũ Hoàng Chương có dùng một số thành ngữ chữ Hán quen thuộc ở thế hệ trí thức thời ông trở về trước. Nay BVN có nhờ GS Nguyễn Huệ Chi hiệu chỉnh và giải thích vắn tắt những cụm từ ấy nhằm trân trọng gửi toàn văn bài văn tế hào sảng đến quý bạn đọc.
(1) Hà thanh hải yến: Cụm thành ngữ bắt nguồn từ bài Nhật trung hữu vương tử phú của Trịnh Tích đời Đường: 河清海晏, có nghĩa là sông trong biển lặng, ý nói thiên hạ thái bình.
(2) Tố đoạn tuyệt hành hồ đoạn tuyệt: Bản sưu tầm của Thắng Trương Điện ghi “Tố đoạn tuyệt thành hồ đoạn tịch”; ở đây tác giả dùng tên tác phẩm Đoạn tuyệt của Nhất Linh đem lồng vào cụm chữ Hán Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn素患難 行乎患難 trong sách Trung dung để chơi chữ (Phan Bội Châu cũng đã dùng cụm từ này như một thành ngữ), vì thế chúng tôi dựa vào kết cấu của cụm từ gốc chữ Hán mà tạm hiệu chỉnh lại như trên để rõ nghĩa hơn. Toàn câu văn có nghĩa: đã đương đầu với tình cảnh đoạn tuyệt thì hành xử theo cách tự hủy mình.
(3) Phượng Nhất Linh hề thiên nhất phương: Chim phượng hoàng Nhất Linh đã bay đến phương trời nào rồi.
Tương biệt dạ (*)
(Tiễn Nhất Linh)
Huyền Kiêu
Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề,
Ý sầu lên vút tới sao Khuê.
Quý thay giây phút gần tương biệt
Vương vấn người đi với kẻ về.
Ngồi suốt đêm trường không nói năng;
Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng giăng.
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ?
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Đã tắt lò hương lạnh phím đàn;
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn!
Trời cao mây nhạt ngàn sao sụng;
Một giải sương theo vạn dặm buồn.
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau;
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Giăng mùa xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi anh biết đâu!
1941
H.K.
(*) Đựa theo ảnh tư liệu của Suối Hoa Bùi trên FB. Dòng phụ đề do BVN thêm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.