Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

Ảo Vọng Hòa Giải Hòa Hợp…


Ảo Vọng Hòa Giải Hòa Hợp…

Ảo Vọng Hòa Giải Hòa Hợp…
Alan Phan
Tháng Tư – 2015
Chim-bo-cau-trang
(Bình an là khi những gì chúng ta nghĩ, chúng ta nói và chúng ta làm đều hòa hợp nhất quán – Peace is when what you think, what you say and what you do are in complete harmony – Mahatma Gandhi)
Tôi còn nhớ khoảng vài tháng sau khi bức tường Berlin sụp đổ, tôi ngồi ăn tối với một đại gia Mỹ (gốc Đức) và một chính trị gia khá cao cấp dưới quyền của TT Helmut Kohl/Tây Đức (lúc ấy vẫn là 2 quốc gia Tây và Đông Đức). Ngài đại gia Mỹ có một công ty lớn ở Tây Đức và đang liên doanh với một công ty nhỏ của tôi ở Trung Quốc. Ông cần một phân tích pháp lý và thị trường kỹ càng về chiến lược và hệ quả của thế trận mới khi nước Đức thống nhất. Nhà máy này của ông tại Trung Quốc hợp tác với một doanh nghiệp nhà nước của Đông Đức và đang cho họ giữ độc quyền phân phối sản phẩm tại khắp châu Âu. Tôi phải lò mò bay qua Munchen để bàn việc với ngài.
Mệt với chuyến bay và múi giờ, tôi lười biếng chỉ muốn bữa ăn qua nhanh để về khách sạn ngủ. Tuy nhiên, một phần câu chuyện của 2 ông làm tôi chú ý. Trước hết, vị chính khách than phiền là khá bận rộn với những sửa soạn cho sự hòa nhập chính thức của 2 quốc gia dự định hoàn tất trước cuối 1990. Vì theo hiệp định giữa 2 bên, nước Đức thống nhất sẽ là một successor (hậu thân) của Tây Đức, nên phía chính quyền Kohl gần như phải lo mọi vấn đề phát sinh; từ pháp lý, chính trị, kinh tế đến xã hội, dân sinh. Mệt nhất là một ngân sách rất tốn kém để trang trải tất cả chi phí cho việc nâng cao mức thu nhập của dân Đông Đức lên được khoảng 70% của dân Tây Đức trong thời hạn 10 năm sắp đến.
Với đầu óc còn ngây thơ, tôi nghĩ thống nhất là điều mọi người Đức đều ao ước, kể cả đại gia gốc Đức, vì ngài luôn luôn khoe về một quá khứ huy hoàng của Đế Chế Đức và hãnh diện với bất cứ điều gì, vật gì…liên quan đến Đức. Nhưng ngài lại phê phán một câu rất…ngược,” Chính quyền của anh (Tây Đức) đã làm một điều ngu xuẩn nhất. Đi nuôi từ thiện một thằng nghèo đói, bệnh hoạn…Trong vài chục năm tới, các anh sẽ phải mang cục nợ nặng nề này trên vai, và mọi ngươi dân Tây Đức sẽ nguyền rủa các anh vì họ phải đóng bao nhiêu thuế thêm để nuôi những thằng lười biếng, lợi dụng ; mặc cho nền kinh tế bị lụn bại, không thể cạnh tranh hữu hiệu. Ngoài ra, với dân số nghèo, tăng trưởng nhanh, di dân thông thoáng, Đông Đức sẽ lần lần nắm cán cân quyền lực chính trị…cũng như kinh tế. …Cũng may là Tây Đức còn đủ cash để vất tiền qua cửa sổ.”
Dĩ nhiên, ngài đại gia chỉ là thiểu số và nước Đức đã vượt qua nhiều thử thách để hòa nhập gần như toàn diện sau 25 năm. Thu nhập của dân Đông Đức đã đạt mức 78% thu nhập của dân Tây Đức. Tuy nhiên, ngài đại gia đã khá chính xác về dự đoán của mình. Theo thống kê từ The Telegraph, vào cuối 2014, Tây Đức đã tiêu xài gần 2 ngàn tỷ euros, khoảng 100 tỷ euros mỗi năm cho Đông Đức. Một quốc gia nghèo hơn Tây Đức chắc đã phá sản.
Lịch sử khó khăn trong việc thống nhất nước Đức là một đề tài tranh luận sôi nổi gần đây tại Hàn Quốc, nhất là khi tin đồn về sự sụp đổ của chính quyền Bắc Triều Tiên lan tràn trên mạng truyền thông quốc tế. Yêu nước, yêu đồng bào…là một chuyện, nhưng đa số người Hàn không muốn “phá sản” chỉ vì những anh em bà con chỉ lăm le “chôn sống” mình để cướp của. Một giáo sư Hàn Quốc tâm tư, “ Thống nhất đất nước là một lý tưởng overrated (đánh giá quá cao) và over its time (không hợp thời). Cứ giữ nguyên trạng như thế này thì tốt cho cả hai bên. Dân Bắc Triều Tiên chắc cũng quen và thích lối sống nô lệ rồi.”
Đây là chuyện của những quốc gia dân chủ pháp quyền, tôn trọng đa nguyên, dân trí tương đối cao và đủ giàu mạnh để trả tiền “mua thuốc Hòa Giải Hòa Hợp (HGHH)”. Ngay cả những lãnh tụ lớn với mục tiêu “quốc gia dân tộc trên hết”như Lincoln, Mandela, Truman…cũng rất vất vả để thực thi chính sách HGHH mà không gây nhiều thiệt hại đến người thua hay kẻ thắng…..
&&&&&&
Tháng tư lại về. Quận Cam của Nam Cali và có lẽ tại khắp các cộng đồng Việt ở hải ngoại, lại tràn ngập cờ vàng và những buổi lễ tưởng niệm ngày gẫy súng, ngày quốc hận, ngày thua cuộc. Bên kia bờ Thái Bình, chính quyền cờ đỏ đang chuẩn bị một lễ hội tưng bừng với pháo hoa, diễu binh và văn nghệ hoành tráng mừng ngày đại thắng. Hai thái cực, hai tác động, hai niềm tin, hai ký ức, hai thế giới…có thể nói là đối nghịch nhau như nước với lửa. Tuy nhiên, không ít người từ mỗi bên kêu gào …hòa giải hòa hợp (HGHH) để cùng nhau bắt tay xây dựng một Việt Nam hùng cường, giàu mạnh.
Mặc cho nghi ngờ từ nhiều phía, lời kêu gọi được giới trẻ và dân trí thức yêu thích vì đích đến của HGHH quá lý tưởng và đúng với tinh thần yêu nước yêu dân của lứa tuổi “yes, we can”. Tuy nhiên, lý tưởng là một chuyện nhưng thực tế còn rất xa vời với những rào cản chính:
  1. Mọi xã hội hay cộng đồng ngày nay đã đa dạng hóa:
Từ quốc gia dân chủ đa nguyên đến xã hội độc tài chuyên chế, thành phần dân chúng gồm rất nhiều phân khúc: khác biệt về trí tuệ, khoảng cách giàu nghèo, thế hệ trẻ già, quan điểm chính trị, môi trường sinh hoạt, văn hóa truyền thống, nhu cầu dân sinh…Tại Mỹ, không ai có thể đem một anh chị “WASP” (da trắng, gốc Anglo-Saxon, đạo Tin Lành) hay tín đồ của KKK…đi HGHH với một người Mỹ gốc Phi, sống trong ổ chuột Harlem, theo đạo welfare…Còn Việt Nam, mỗi một đề tài tranh cãi dù rất nhẹ nhàng như chuyện “tự hào dân tộc” là đủ ma xát để gây ẩu đã bạo lực.
Nói chi đến những sự kiện lịch sử đã thay đổi như biển dâu định mệnh của cả chục triệu người?
  1. 2.       Bất cứ việc HGHH nào cũng phải dựa trên tự do ngôn luận
Quyền tranh cãi, thảo luận, đề nghị… trong một khung cảnh hoàn toàn vắng mặt sự hù dọa hay cưỡng chế là điều kiện tất yếu của HGHH. Không ai dám mở miệng thành thực nói lên những suy nghĩ, những phán xét, những bức xúc của mình (vì sợ) thì HGHH cái gì? Ai có quyền làm trọng tài độc lập để định đoạt chuyện gì là nhậy cảm hay phạm luật? Ai đặt ra luật?
Khi phe đối diện không được tôn trọng và bị chửi rủa liên tục dưới nhiều hình thái thì ai muốn dây vào HGHH? Ích lợi gì?
  1. 3.       HGHH phải dựa trên một nguyên lý căn bản (như quy luật ”đa số” quyết định)
Như đã trình bày, có quá nhiều phân khúc dân số mà dù có trăm ngàn lý lẽ khoa học hay logic cũng không thể thuyết phục người bất đồng quan điểm, chưa kể đến sự kiên định vì lơi ích riêng. Do đó, ở những xã hội dân chủ thực sự, mọi người phải tuân theo quyết định của đa số. Trong kỳ bầu cử năm 2008 , ông Obama thắng với số phiếu lịch sử là 52.7%. Tuy vậy, có nghĩa là gần 47% cử tri Mỹ đã không ủng hộ ngôi vị Tổng Thống của ông này.
Sự đồng thuận về quy luật căn bản để thực thi HGHH là điều gần như bất khả. HGHH không thể là một ban phát như xin-cho hay bổng lộc.
  1. 4.       HGHH phải có niềm tin vào sự thành thực của phe đối diện
Chưa bao giờ “Nói Và Làm” quan trong như trong tiến trình này. Bởi vì chúng ta không phải nói về một đề tài khoa học, mà là một sự kiện chứa nhiều cảm xúc. Cả hai bên đều có những mất mát quá lớn lao đến độ chữ “nợ máu” được sử dụng thường xuyên. HGHH không thể xẩy ra khi chúng ta chưa hóa giải được nghi ngờ này. Câu nói “Đừng tin những gì CS nói mà nhìn những gì CS làm” đã quá phổ biến trong đầu óc và miệng lưỡi của mọi người ở hai bên. Chỉ có những việc làm đích thực đến từ những lời hứa nghiêm túc mới có thể bắt đầu quy trình HGHH.
&&&&&&&&
Từ những suy ngẫm trên, tôi tin sự HGHH giữa hai bên thù địch sau 40 năm hòa bình là điều không tưởng cho Việt Nam trong tương lai gần. Nhiều người còn nêu lý do sâu xa hơn về thái độ bảo thủ kiên định của các quyền lực bên phe XHCN, hay nói về những hận thù của các thuyền nhân bị mất người thân, tài sản… Họ đều đúng vì người có tài sản thâu tóm được sau 1975 sẽ không bao giờ “hy sinh” lợi  ích riêng cho cái viển vông của lý tưởng HGHH. Người bị cướp của trắng trợn cũng khó thể nào mở lòng và ngồi HGHH thoải mái với người gây đau khổ cho mình?
Tệ hại hơn nữa, nhiều chính trị gia từ 2 bên, dùng mồi HGHH để câu khách thêm cho phe mình, được sắp xếp như một chương trình PR qua nhiều “bánh vẽ” với nhiều mưu tính ở sân sau.
Theo suy nghĩ cá nhân của tác giả, những gì chưa thể làm được thì nên im lặng đợi lúc “thiên thời”. Hãy để một hay vài thế hệ mới, với một dân trí và tư duy của thế kỷ mới, bắc cầu tiếp nối. Với HGHH, chắc chắn Việt Nam sẽ tạo thêm được một lực đẩy mới, giúp nhiều cho sự phát triển kinh tế và dân sinh như mong ước. Nhưng chém gió mãi về một giải pháp chưa thể khả thi chỉ làm chúng ta sao lãng những việc phải làm trước mặt và gây nên những thất vọng mới cho lớp trẻ.
HGHH phải xếp hàng đợi vậy…
Alan Phan

Bài cùng chủ đề

Để lại một nhận xét

Hồ Sơ Mật - Cuộc thảm sát ở thôn Mỹ Lai (16/3/1968)

Hồ Sơ Mật - Cuộc thảm sát ở thôn Mỹ Lai (16/3/1968)

http://youtu.be/Z6mIUvb0Uss

Chủ tịch Sang chụp ảnh dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ

Chủ tịch Sang chụp ảnh dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ

noreply@blogger.com (Danlambao)4:34 PM


Ảnh: AACC2015.id
Bạn đọc Danlambao - Lá cờ vàng ba sọc đỏ, đại diện cho chính thể Việt Nam Cộng Hoà vừa được công khai xuất hiện tại buổi lễ kỷ niệm 60 năm Hội nghị cấp cao Á Phi hôm 24/4/2015.

Đây là một hội nghị quốc tế diễn ra ở thành phố Bandung, Indonesia có sự tham dự của chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng với các nhà lãnh đạo đại điện cho 109 quốc gia hai châu lục. 

Hình ảnh được đăng trên website hội nghị cho thấy, trong buổi lễ lá cờ vàng ba sọc đỏ được trang trọng đứng chung với lá cờ của nhiều quốc gia khác. 

Chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình. Ảnh: AACC2015.id


Không rõ vô tình hay cố ý, ban tổ chức đã sắp xếp cờ Việt Nam Cộng Hoà đứng gần sát với lá cờ đỏ sao vàng của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Chủ tịch Trương Tấn Sang cùng lãnh đạo 109 quốc gia đứng trước các lá cờ để tham gia nghi thức chụp ảnh lưu niệm.

Bản tin trên đài Tiếng nói Việt Nam cắt bỏ phần ảnh có lá cờ vàng ba sọc đỏ.


Dù vậy, khi đưa tin về sự kiện này, truyền thông nhà nước Việt Nam đã cắt bỏ những bức ảnh có sự xuất hiện của lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Sau năm 1975, những biểu tượng liên quan đến Việt Nam Cộng Hoà luôn là điều tuyệt đối cấm kỵ đối với các lãnh đạo cộng sản. Điển hình gần đây nhất là trường hợp anh Nguyễn Viết Dũng đã bị CA Hà Nội khởi tố hình sự vì mặc quân phục và đeo biểu tượng người lính Việt Nam Cộng Hoà.

Do đó, hình ảnh nước chủ nhà Indonesia công khai treo biểu tượng Việt Nam Cộng Hoà tại một nghi lễ quốc tế cấp cao chính là một gáo nước lạnh đối với nhà cầm quyền CSVN.

Chủ tịch Sang chụp ảnh dưới cờ vàng. Ảnh: AACC2015.id
Hội nghị Á Phi hay còn được gọi là Hội nghị Bandung được diễn ra lần đầu tiên vào năm 1955 theo sáng kiến của Indonesia. Đây được coi là cuộc gặp gỡ quy mô lớn đầu tiên giữa các quốc gia châu Á và châu Phi tại thời điểm vừa giành được độc lập.

Tại hội nghị cách đây 60 năm, cả hai phía Việt Nam Cộng Hoà và Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà đều có mặt tham dự.

Để xem thêm các hình ảnh về buổi lễ kỷ niệm 60 năm Hội nghị cấp cao Á Phi, bạn đọc có thể vào website hội nghị tại địa chỉ: http://www.aacc2015.id/?lang=en&p=photo



Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng có tên trong danh sách hối lộ in tiền nhựa Polymer



Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng có tên trong danh sách hối lộ in tiền nhựa Polymer

Nguồn tin của báo Vncentral cho biết trang WikiLeaks đưa ra hôm 29/07/2014 cho biết chính phủ Úc đã ra lệnh cấm tiết lộ về hồ sơ tham nhũng nhiều triệu đôla, cấm tiết lộ tên của các lãnh tụ quá khứ và đương nhiệm của Indonesia, Mã Lai và Việt Nam, kể cả thân nhân của họ và các quan chức cao cấp khác.
Lệnh kiểm duyệt này liệt kê 17 cá nhân, trong đó bao gồm “tất cả Thủ tướng tiền nhiệm và đương nhiệm của Malaysia”, “Trương Tấn Sang, hiện là Chủ tịch nước Việt Nam”, “Súilo Bambang Yudhovono (còn gọi là SBY), Tổng thống đương nhiệm của Indonesia (từ năm 2004)”, “Megawati Sukarnoputri (còn được gọi là Mega), cựu tổng thống Indonesia (2001-2004) và lãnh đạo hiện tại của đảng chính trị PDI-P” và 14 quan chức cấp cao và người thân khác từ các quốc gia, những người này đặc biệt không thể bị nêu tên trong quá trình điều tra tham nhũng.
vncentral_truong-tan-sang-nguyen-tan-dung-co-ten-trong-danh-sach-hoi-lo-in-tien-nhua-polymer
Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước Việt Nam (từ năm 2011). Ảnh : vncentral.net
Một trong các tình tiết khiến nhiều người quan tâm chính là mối quan hệ giữa đại tá an ninh Lương Ngọc Anh với cảnh sát Victoria, Úc. Ông Lương Ngọc Anh, chính là giám đốc công ty CFTD, công ty bị báo chí Úc cáo buộc là trung gian đưa hối lộ giữa Securency với các quan chức Việt Nam.
Theo thông tin được đưa ra tại tòa, cảnh sát Victoria đã thuê ông Lương Ngọc Anh làm trung gian để bán các máy móc thử nghiệm DNA, lấy dấu tay cho cảnh sát Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1998 đến 2002.
vncentral_truong-tan-sang-nguyen-tan-dung-co-ten-trong-danh-sach-hoi-lo-in-tien-nhua-polymer -
Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam (từ năm 2006). Ảnh : vncentral.net
Điều đáng chú ý là ông Lương Ngọc Anh cũng bị cáo buộc là đã nhận 15 triệu đô la tiền hoa hồng môi giới cho hợp đồng in tiền polymer tại Việt Nam. Cảnh sát điều tra Liên bang Úc nói với tòa án vào tháng trước rằng công ty CFTD là cánh tay của chính phủ và những khoản tiền môi giới trả cho Lương Ngọc Anh để có hợp đồng in tiên chính là những khoản tiền tham nhũng.
Đặc biệt, bản tin WikiLeaks hôm 29-7-2014 chỉ nhắc tên ông Trương Tấn Sang, nhưng không nhắc tên Lê Đức Thúy (lúc chuyện hối lộ xảy ra là Thống Đốc Ngân Hàng Trung Ương VN), và Đại tá an ninh Lương Ngọc Anh, người trong hồ sơ mấy năm trước được báo Úc cho là cầm tiền hối lộ của RBA.
vncentral_truong-tan-sang-nguyen-tan-dung-co-ten-trong-danh-sach-hoi-lo-in-tien-nhua-polymer --
Đại tá công an Lương Ngọc Anh. Ảnh : vncentral.net
Ông Julian Assange, người xuất bản WikiLeaks, cho biết về lệnh kiểm duyệt:
“Lệnh cấm này là lệnh tồi tệ nhất từ trước đến nay. Với nó, chính phủ Úc đã không chỉ bịt miệng báo chí Úc, mà còn bịt mắt cả công chúng Úc. Đây không chỉ là vấn đề chính phủ Úc thất bại trong việc đưa một vụ án tham nhũng quốc tế ra trước công luận như nó xứng đáng phải thế. Bộ trưởng Ngoại Giao Julie Bishop phải giải thích tại sao bà lại đe dọa mỗi người dân Úc bằng bản án tù để nhằm che dấu một vụ bê bối tham nhũng đáng xấu hổ có liên quan đến chính phủ Úc.”
“Khái niệm về “an ninh quốc gia” không phải để làm tấm mền che đậy những cáo buộc tham nhũng nghiêm trọng liên quan đến các quan chức chính phủ, ở Úc hay ở đâu cũng thế. Đây là vì lợi ích chung của cộng đồng mà báo chí phải có quyền đưa tin về vụ việc này, trong đó có liên quan đến công ty con của ngân hàng Trung ương Úc. Ai là người môi giới giao dịch này, và chúng ta đã môi giới họ ở cấp quốc gia? Điều tra tham nhũng và lệnh kiểm duyệt thông tin với lý do “an ninh quốc gia” là hai thứ không thể đi đôi với nhau. Thật là mỉa mai khi Tony Abbott đã đem những điều tồi tệ nhất của “giá trị Châu Á” tới Úc”.

Các tin khác

Hòa bình của nấm mồ


Hòa bình của nấm mồ 

Tuesday, 28 April 2015 16:11

Theo:baotreonline.com
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979
Phạm Thị Hoài dịch


alt

Nguyễn Văn Thiệu và Henry Kissinger

SpiegelThưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để "bóp nát trái tim Hoa Kỳ". Vì sao ông lại cản trở như vậy?

Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi. 

Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.

SpiegelKissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ý với các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.

Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài.

SpiegelKissinger có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận về hòa bình, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ - trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình sẽ được ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam. 

Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện. Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.



Nguyễn Văn Thiệu và Richard Nixon tại cuộc họp ở Midway 1969

SpiegelVậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?

Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi.

Spiegel: Tức là ông đã nắm được tình hình?

Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế. Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm.

SpiegelKhi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.

Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.

SpiegelVà ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của mình. 

Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía...

Spiegel... và mang tính tượng trưng?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.

SpiegelMỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.

Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu.

SpiegelÔng đánh giá thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: "Việt Nam hóa chiến tranh". Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc "phi Mỹ hóa" cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không?

Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: "Hãy giúp chúng tôi giúp ông." Tôi đáp: "Tôi giúp ông giúp chúng tôi." Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước.

SpiegelNhưng không đưa ra một lịch trình cụ thể?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.

SpiegelỞ thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không?

Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.

SpiegelCó lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng "đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác." 
Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.

Spiegel: Ông đã oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân. Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế.

Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết. 

Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: "Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận." Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi.

SpiegelCó lẽ Liên Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam.

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.

SpiegelÔng có lập luận như thế với Kissinger không?

Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: "Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?"

SpiegelÔng ấy trả lời sao?

Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.

SpiegelNhưng Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng "lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất."

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao. 

Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ? 

Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam làm gì? 

SpiegelVậy Kissinger nói sao?

Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ.

SpiegelKissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng.

Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?

SpiegelVề vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước, mà ông còn chấp thuận.

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: "Hình ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!" Hoặc: "Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ." Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đã rồi. 

Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: "Ông ta đòi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về." Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: "Ông mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ."

Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông trước.

Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói "Không", nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.

SpiegelBây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai?

Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.

SpiegelVì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?

Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch tại Lào.

SpiegelKissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.

Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.

SpiegelTinh thần binh lính bị suy sụp?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng.

SpiegelKissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì?

SpiegelTức là ông đã thông báo cho họ?

Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: "Nhát như cáy". Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này.

SpiegelMột điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.

SpiegelKissinger viết: "Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp tác." Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những "chiến thuật né tránh" mà "người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc" ra dùng.

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó.

SpiegelKhi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?

Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.

Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.

SpiegelMặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.

Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.

SpiegelVề điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?

Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.

SpiegelNếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.

Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?

Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.

SpiegelTrong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao "trí tuệ", "sự can đảm", "nền tảng văn hóa" của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào "thái độ vô liêm sỉ", "xấc xược", "tính vị kỷ chà đạp" và "chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng" trong cách ứng xử với người Mỹ của ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra "sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực". Ý kiến của ông về những khắc họa đó thế nào?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.

SpiegelHay ông đã làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế?

Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng.

Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.

SpiegelNhư trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn.

Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy.

SpiegelTrong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon đã gọi ông là "đồ chó đẻ" (son of a bitch) mà Nixon sẽ dạy cho biết "thế nào là tàn bạo".

Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp. 

Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến Quốc hội.

Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ "lòng oán hận độc địa".

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi.

SpiegelKissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn "thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng" của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?

Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.

SpiegelKissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu "theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề", rằng ông "chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện".

Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi. 

Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một. 

Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.

Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?

Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung thực không? 

SpiegelMột số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông thì thế nào?

Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.

SpiegelNhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy.

Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một "thỏa thuận danh dự". Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: "Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ." Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: "Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự."

SpiegelKissinger viết như sau: "Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh."

Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ. 

SpiegelCó bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: "Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt."

Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ.

SpiegelCá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?

Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ.

SpiegelXin cảm ơn ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

(Nguồn: "Die Amerikaner haben uns verraten", tạp chí Spiegel số 50/1979. Những người thực hiện: Engel, Johannes K., Lohfeldt, Heinz P.)

16318